THIỀN
PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ
TỪ
LUẬN GIẢI TRẦN NHÂN TÔNG
Phạm Văn Tuấn
Từ
khoá: Nhân Tông,
Trúc Lâm, Phật tính; lạc đạo, nhập thế. (仁宗; 竹林; 佛性; 三教;乐道; 入世)
Mấy
trăm năm triều Trần gắn liền với sự phát triển và thống nhất lãnh thổ dân tộc.
Trải qua 2 cuộc kháng chiến chống xâm lăng Nguyên Mông, nhà Trần đã làm nên kì
tích trong lịch sử Đại Việt. Mấy trăm năm, nổi lên hình ảnh một vị vua, một anh
hùng dân tộc, một nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, nhà tu hành…. đó là Trần Nhân
Tông. Trần Nhân Tông như một ngôi sao sáng nhất trong thời Lý - Trần, gắn liền giữa
vấn đề Phật giáo và vấn đề dân tộc. Nhà vua đã phát triển xã hội từ chính tự
thân với tư tưởng Phật giáo trong mối tương giao Tam giáo đồng nguyên để phát
triển đất nước. Trần Nhân Tông khai mở hoàn thiện thiền Trúc Lâm mở ra tông
phái Trúc Lâm Yên Tử trong sự phát triển nối kế của lịch sử Phật giáo từ thời đại
nhà Lý đến thời đại triều Trần. Như thế nào mà được hậu thế sùng tôn Trần Nhân
tông là Trúc Lâm Đệ nhất tổ? Bài viết, hy vọng tiến gần đến thời đại và con người
phát triền Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử thời Trần thông qua hình ảnh Trần Nhân
Tông.
I.
Vương quyền tới thần quyền – Từ Trúc Lâm Yên Tử vào thời đại.
Trần
Nhân Tông cũng như các vị vua khác trong giai đoạn Lý Trần đều tôn sùng đạo Phật.
Thời Trần, từ vua đến quan lại cho tới sĩ dân, đạo Phật đã thành nếp văn hoá,
thành mạch sống của con người. Nhân Tông lên ngôi từ rất sớm, dù rằng, ngài
không muốn nối kế ngôi vị mà sống theo đạo tu hành[1]. Ngôi vị bậc thánh nhân
cũng chính là lấy cái của muôn dân làm cái muốn của mình từ những lời tiên tổ
Thái Tông đàm đạo với Quốc sư Đại sa môn Trúc Lâm trong Thiền tông chỉ nam tự[2].
Điều đó, cho thấy giữa 2 con người trong các vua Trần là vương quyền và thần
quyền luôn tương trưởng. Vương quyền chính là triều đình, là cai trị xã tắc thống
nhất, đánh đuổi xâm lược, mở rộng lãnh thổ về Nam …. Thần quyền là phần hồn, phần
tâm linh hướng thượng trong hệ tư tưởng của con người nhà vua. Đấy cũng như sau
giấc mộng của Hoàng hậu thấy thần nhân trao cho hai thanh kiếm (神人授兩劍) mà nói rằng: Thượng đế có sắc ban cho người chọn (上帝有敕聽汝自擇)rồi hoài thai mà
sinh Nhân Tông[3].
Khi ngài sinh ra, hương thơm khắp nhà, ánh sáng ngập đất, thân mang sắc vàng, cho
nên, Thánh Tông mới gọi Nhân Tông là Kim Phật (聖宗以金佛為名)[4]. Đến sau này, Nhân Tông lại
thường mộng thấy một đoá sen lớn như bánh xe nở trên rốn, mà trên toà đó hiện
hình đức Biến chiếu tôn 遍照尊[5]. Tất cả hiện lên màu sắc huyền bí nhưng
hợp lý cho sự phát triển của con người trong tương quan giữa đạo pháp dân tộc của
xã hội Phật giáo Đại Việt thời Lý - Trần.
Việc
những giấc mộng gắn liền với vị vua cho thấy sự hợp nhất vương quyền và thần
quyền trong con người Trúc Lâm Đệ nhất tổ Trần Nhân Tông. Bởi không chỉ Nhân
Tông sinh ra như được báo trước từ giấc mộng hai thanh kiếm rồi đến Pháp Loa
sinh ra cũng được báo mộng, khác chăng Pháp Loa được báo mộng là một thanh kiếm
mà thôi[6]. Đồng thời, các vị tổ sinh
ra đều hương thơm khắp chốn, ánh sáng khắp không gian mà chúng ta gặp bàng bạc
trong các thần tích Việt Nam .
Có chăng, văn bản về các vị tổ có lẽ là những truyền thuyết sớm được ghi chép lại
để tôn sùng sự uy linh của vương quyền và thần quyền mà biểu trưng là Đạo Phật
nhập thế.
Bản
thân Trần Nhân Tông nhà vua nhiều lần từ chối lên ngôi làm Thái tử nhưng Thánh
Tông không cho, đến khi vững ngôi báu, đánh đuổi quân Nguyên xâm lược 2 lần, rồi
làm Thái Thượng hoàng điều hành đất nước đợi cho Anh Tông trưởng thành rồi mới
xuất gia. Thực tế, thời gian trở thành một thày tu đúng nghĩa xuất gia chỉ
trong 8 năm, cho đến khi ngài nhập tịch. Tuy nhiên, trong 8 năm đó, bản thân là
người nghiên cứu đạo Phật từ nhỏ, Nhân Tông đã thấm đượm tư tưởng Phật giáo,
nên có thể trong thời gian xuất gia chính là giai đoạn ngài nghiền ngẫm và thấm
đượm tinh thần Phật giáo nhập thế và hiểu rõ uy lực to lớn của Đại hùng Đại lực
Đại từ bi. Lấy tinh thần từ bi hỉ xả cứu độ chúng sinh bằng bỏ các dâm từ, phát
triển đạo pháp dân tộc cùng hoà hợp. Nhân Tông nhiều lần xin Đại Tạng Kinh,
tuyên giảng kinh kệ, ngữ lục ở chùa chiền, thuyết giảng đăng đàn truyền giới.
Truyền
thống thiền phái Trúc Lâm đã thấm nhập tinh thần nhập thế vào chính truyền thừa
tông thất nhà Trần. Từ Trần Thái Tông và Viên Chứng đến các vua Thánh Tông, đến
Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung…. tạo nên mạch truyền thống phái và sự phát triển
bền vững của đạo Phật thời Trần. Yếu tố thời đại cũng cho thấy, đến thời Trần,
các mạch phái đạo Phật ở Đại Việt cũng suy vi, như: thiền phái Tì Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông…. Đã không còn thịnh trị và phát triển nối kết tông phái được
như thời Lý nữa. Nhân Tông đã nối kết từ phái Trúc Lâm để mở rộng và ổn định
tông phái, tạo nên mối gắn kết mật thiết giữa dân tộc và tôn giáo, giữa chính
quyền vương quyền và thần quyền, tạo nên uy lực cho sự phát triền.
Nho
giáo cho rằng Thánh nhân sinh ra trong khoảng cách 500 năm. Phật giáo không
quan niệm như thế, tuỳ theo từng thời, mà đến nay thuộc thời mạt pháp. Bản thân
Nhân Tông khi còn đương thế, ngài tự xưng là Đại sĩ, là Trúc Lâm Đại sĩ. Tức là
ngài coi mình như một vị Bồ tát tu theo hạnh Đầu đà, tiến tu đến quả Tỳ khưu mà
thôi. Đến khi viên tịch, được ban tôn hiệu cho là: Đại thánh Trần triều Trúc Lâm đầu đà Tịnh tuệ Giác Hoàng Điều ngự tổ Phật.
Ngài được phong Tổ cũng từ sau khi viên tịch. Trong Đoạn sách lục được biên soạn sau đó, mà sau này bia tháp Viên thông
trên chùa Thanh Mai dựng năm 1368 ghi chép về Pháp Loa đã cho biết khi Trần
Nhân Tông truyền đăng cho Pháp Loa thành竹林第二代Trúc lâm đệ nhị đại[7], cùng truyền áo pháp cùng
như các pháp khí truyền đăng. Như thế, rõ ràng Nhân Tông đã được coi là Đệ nhất tổ của Trúc Lâm Yên Tử chính từ
thời ngài còn đương tại. Trong văn bia cũng như trong Tam tổ thực lục, Thánh Đăng lục đều ghi ngài là đức Điều Ngự cho thấy
các văn bản đều tôn trọng và mang tính thống nhất trong biên soạn về con người
hành trạng Nhân Tông.
Làm
vua một nước, công huân đánh đuổi xâm lược hai lần, trí tuệ siêu phàm, thông nội
ngoại điển, Trần Nhân Tông hiển hiện một thánh nhân lớn thời Trần. Công uy của
ngài bàng bạc khắp đất trời Đại Việt. Đại
Việt sử kí toàn thư sau này bình luận về Trần Nhân tông: “Vua nhân từ hoà nhã, cố kết lòng dân, thực
là bậc vua hiền của nhà Trần”. Sau khi đất nước thái bình, ngài phục hưng
thiền phái, nối kết dân tộc trong tông giáo để nhân sinh sống trong hạnh phúc
an lạc mà phát triển thiền phái Trúc Lâm đi đến sự thịnh trị.
Thời
đại Phật giáo, Triều đình Phật giáo và con người mang tư tưởng Phật giáo tạo
nên những nhân tố đầy đủ cho sự hình thành vị vua Phật (Phật hoàng) mở ra tông
phái Trúc Lâm Yên Tử truyền mãi về sau. Vị vua đó, gắn nối giữa Thần quyền và
Vương quyền thành mối quan hệ thâm mật để phát triển và định hướng xã hội theo
đến chốn Phật chốn đời.
Sau
gần nghìn năm, khi cho in lại Tam tổ thực
lục (1897), Diệu Trạm Thiền sư đã có những lời nhận định trong phần duyên
khởi cho lần Trùng san về chư tổ Trúc Lâm Yên Tử như sau: 陳家三祖同時修證者是一佛二菩薩
…一是法王御世者遜位投禪忘身為道且若禪機酬應果然明鏡不疲 - Ba
vị tổ nhà Trần cùng thời tu chứng, vị thứ nhất là Phật, vị thứ 2 là Bồ Tát … Vị
thứ nhất là Pháp vương chế ngự ở chốn đời, bỏ ngôi vua để theo Thiền tông, quên
thân mình vì đạo. Vả lại, ngài là bậc Thiền cơ thù ứng, quả nhiên là gương sáng
không tì vết… Đã cho thấy Trần Nhân Tông hiển hiện một vị vua ngồi ngôi Phật
giữa triều đình, điều hành đất nước trên cơ sở Vương quyền và thần quyền, định
hướng tông giáo tạo nên tính ổn định và phát triển của Dân tộc Đại Việt.
II.
Trần Nhân Tông và sự ổn định pháp phái.
Yếu
tố vương quyền và thần quyền là tạo nên sự ổn định xã hội với uy quyền của người
làm chủ đất nước và làm chủ tông phái. Theo Thiền
uyển truyền đăng lục, Tam Tổ thực lục, Trúc Lâm Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục
thì Nhân Tông kế nối tông chỉ từ Tuệ Trung Thượng sĩ. Tuy nhiên, cũng trong Trúc Lâm Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục[8],
đã liệt kê truyền phái Trúc Lâm, trong đó cho rằng Nhân Tông chịu thụ giới tổ
thứ 6 phái Trúc Lâm theo Lược dẫn thiền
phái đồ, như sau:
Thông Thiền – Tức
Lự - Ứng Thuận – Tiêu Dao – Tuệ Trung –
Trúc Lâm – Pháp Loa – Huyền Quang.
Lại
theo tờ 11a của Thiền uyển truyền đăng lục[9]
quyển hạ thì truyền thừa ở Yên Tử đến Trúc Lâm tam tổ như sau:
Hiện Quang –
Viên Chứng – Đại Đăng – Tiêu Dao – Huệ Tuệ - Điều Ngự Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang …
Lịch
sử đã trải qua hàng nghìn năm, đến nay kiểm chứng lại còn nhiều bất cập nên việc
truyền thừa này chúng ta nhìn nhận trên lý thuyết tương đối. Thực tế, bản thân
Tuệ Trung là bậc cư sĩ, nên thụ giới cho Nhân Tông có thể là Huệ Tuệ. Vấn đề,
Nhân Tông đắc chỉ dòng Trúc Lâm và đã xiển dương pháp phái, mở rộng quy mô tạo
nên tông phái Trúc Lâm Yên tử. Cho nên, ngài đắc pháp và mở rộng quy mô, ổn định
thanh quy tạo nên sự phát triển cho tông phái và bản thân được tôn sùng thành Đệ
nhất tổ.
Trước hết sự ổn định pháp phải ở bản thân Nhân Tông
là vua một nước, cai quản toàn bộ xã hội từ các cao tăng, thạc đức, các cư sĩ,
nho sĩ, đạo sĩ….. Tính định hướng của vị vua xuất thế hợp lí bởi bản thân ông
tinh thông nội ngoại điển, nhiều lần xin Đại
Tạng kinh từ nhà Nguyên vào năm 1295 với hơn một vạn năm trăm ngàn cuốn
kinh để phát triển đạo pháp Đại Việt. Điều này được chính sử nước ta cũng như
Trung Quốc ghi lại[10]. Hơn thế, Đệ nhất tổ cho
khắc in lại kinh sách, ấn tống cho tăng chúng học. Việc in khắc kinh sách này
không chỉ bia Thanh Mai Viên thông tháp
bi ghi lại mà cả Đại Việt sử kí toàn
thư cho biết vào tháng 8 năm 1299: “In
các sách Phật giáo pháp sư, Đạo trường tân văn và Công văn cách thức ban hành
trong cả nước”.
Đồng
thời, ngài làm chủ đàn giảng giải kinh kệ. Tam
tổ thực lục ghi lại: “興隆己亥七年十月徑入安子山精勤修學道十二頭陀行自號香雲大頭陀立支提精舍開法度僧學侶雲湊 Tháng
10 năm Kỉ Hợi (1299) niên hiệu Hưng Long thứ 7, ngài đi theo đường nhỏ vào núi
Yên Tử mà tinh cần tu đạo theo 12 hạnh Đầu đà, tự đặt tên hiệu là Hương vân đại
đầu đà, lập Chi đề[11],
tinh xá, khai mở thuyết pháp để độ chúng tăng. Người học đua nhau đến rất đông….”[12]
Việc
hành trì tu tập, Nhân Tông hướng tu theo mười hai hạnh Đầu Đà, mà bản thân các Đệ
nhị tổ, Đệ tam tổ sau này tiếp tục nối đèn tu tập. Cũng chính là truyền thống
pháp phái trong sơn môn Trúc Lâm yên Tử.
Có
thể nói, thông qua việc đào tạo tăng tài, phát triển tông phái, in ấn kinh sách
ấn tống, thỉnh Đại tạng….. chính là công việc thống nhất giáo hội Phật giáo quy
về một mối quản lí để đạo pháp dân tộc đồng nhất. Đây cũng chính là công việc
vô cùng có ý nghĩa để truyền thống Trúc Lâm cũng như các tông phái khác được
phát triển dựa trên một tông phái chính là Triều đình với Thần quyền và vương
quyền Trúc Lâm Yên Tử mà ngôi vị lớn nhất là Đệ nhất tổ Trần Nhân Tông. Thống
nhất tăng chế, thanh quy, mở trường,
khai lớp đã khiến cho Phật giáo Đại Việt đi vào quỹ đạo phát triển có định hướng.
Điều này thuận lợi cho việc tuyển trạch tăng tài trong giai đoạn Lý Trần cũng
như về sau mà điển trưng là truyền khoa thi Tam giáo trong giai đoạn này. Đây cũng
chính là mấu chốt quan trọng trong việc định hình nên vị Thiền gia Thạch trụ Trần
Nhân Tông trở thành Trúc Lâm Đệ nhất tổ của Phật giáo thời Trần nói riêng và Phật
giáo Việt Nam nói chung.
III. Tính tuyến phát triển Trúc Lâm
Yên Tử
Phần
này chúng tôi tiến hành một giả định về tuyến tính phát triển của Thiền phái
Trúc Lâm sau khi Trần Nhân Tông xuất gia và kế nối thiền dòng thiền tại Yên Tử
dựa trên tuyến tính phát triển đường sông - đường núi. Thực chất của tuyến tính
này gắn liền với triều đình vua Trần có nguồn gốc từ Nam Định mà nguồn gốc tổ tiên làm
nghề chài lưới. Đồng thời, sự vận chuyển đi lại của thời đại phong kiến chủ yếu
là con đường sông nước, nên chùa chiền miếu mạo nói chung mang tuyến tính đường
sông nước và núi non là điều dễ hiểu.
Trước
tiên chúng tôi thấy rằng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử gắn liền với dãy núi Yên Tử
làm trung tâm phát triển. Núi Yên Tử có thể có cách gọi khác nhau như núi An Kì
sinh, Linh Sơn, Lỗi Sơn, Phật Tích Sơn (chùa Thanh Mai)… Tuy nhiên, các phân
nhánh núi này đều theo mạch kiến tạo kéo dài của dãy núi từ khu vực Quảng Ninh
lên đến tận Lục đầu giang làm điểm cuối
nhưng vượt qua sông và gắn mạch ngầm qua Bắc Giang, Bắc Ninh, nên về sau hệ thống
bia chùa Bút Tháp, chùa Tĩnh Lự còn ghi về mạch truyền của núi Yên Tử. Điều này
minh chứng hệ thống chùa chiền dòng thiền Trúc Lâm đi theo tuyến tính núi Yên Tử kép dài theo mạch lên khu vực
Bắc Giang, Bắc Ninh.
Thứ
hai, dòng thiền Trúc Lâm gắn liền với tuyến tính các dòng sông. Có lẽ, cách đây
một nghìn năm, hệ thống sông nước và đồng bằng ao hồ cũng khác bây giờ, nhưng
những con sông còn lại hoặc chăng dựa trên tài liệu Hán Nôm, hoặc chăng trên
căn cứ nghiên cứu thị sát cũng cho những nhận định phát triển tuyến tính của
dòng Thiền.
Tuyến
đầu tiên về đường sông gắn liền với các chùa theo mạch di chuyển của dòng thiền
cũng như chùa chiền là chùa Siêu Loại. Điều dễ nhận ra là Trần Nhân Tông thường
về chùa Siêu Loại giảng kinh, hoặc chùa Vĩnh Nghiêm. Tuyến tính này cho thấy
ngài (có thể) đi theo sông Đuống đến chùa Siêu Loại, hoặc đi qua sông Lục Nam , hoặc đến
Sông Lục Đầu rồi lên chùa Vĩnh Nghiêm. Từ sông Lục Đầu, theo sông Kinh Thầy qua
phân nhánh sông con thuyền có thể về chùa Quỳnh Lâm hoặc lên núi Phật Tích chùa
Thanh Mai. Tuyến tính này cho thấy sự gắn kết các chùa cũng như những lần di
chuyển của đức Điều Ngự. Đấy là ngài đi tư chùa Siêu Loại đến chùa Vĩnh Nghiêm,
qua chùa Sùng Nghiêm ở núi Lỗi Sơn, chùa Tú Lâm ở ngọn An Kì Sinh mà nay chúng
ta thường gọi là Yên Tử. Từ ngọn An Kì Sinh ngài mới lên núi Ngoạ Vân hoặc Am
Ngoạ Vân. Chính trong những lần di chuyển này ngài đã gặp Pháp Loa ở đạo Nam
Sách. Tuyến tính này được Tam Tổ Thực Lục
ghi lại rất rõ. Đồng thời cho biết Điều Ngự thi thoảng xuống đi bộ, như vậy,
ngoài tuyến thuyền bè dễ di chuyển các vùng miền và cáng, hoặc đi bộ thì phương
tiện của người dân Đại Việt.
Đồng
thời một tuyến tính đường sông nữa mà ngài đi là từ dãy núi Yên Tử trên các tổ
đình, các am, tự viện ngài có thể phủ Hưng Long (nay thuộc khu vực tỉnh Thái Bình – Nam Định nơi quê hương nhà Trần)
dựa trên đường thuyền đi sông Thái Bình. Việc này cũng rất thuận tiện để có thể
sang chùa Phổ Minh ở Thiên Trường giảng kinh kệ như kinh Pháp Hoa hoặc kinh Hoa
nghiêm các hội. Ngoài việc đi Thái Bình Nam Định qua sông Thái Bình do khi ở
Vĩnh Nghiêm hoặc Yên tử, nếu từ Thăng Long thì thuyền có thể đi theo dòng sông
Hồng để xuống. Như thế, các tuyến tính đều có điểm nối kết.
Phân
định tuyến tính đi lại cũng chính là phân định tuyến tính phát triển dòng Thiền.
Đồng thời cũng chính là sự kiểm soát của triều đình với Phật giáo. Nó cũng
chính là sự bao trùm của Trần Nhân Tông, phát triển Trúc Lâm Yên Tử với một
giáo hội đầy đủ các chức năng quản lý và phát triển khắp tông giáo cả nước. Sự ổn
định không những trong không gian Đại Việt trên cơ sở tuyến tính phát triển mà
con vươn rộng ra các đại phương khác như am Tri Kiến tận trại Bố Chính[13]. Tất cả cho thấy vị thế của
vị Trúc Lâm Đại Đầu đà – Trúc Lâm Yên tử Đệ nhất tổ Trần Nhân Tông.
IV.
Truyền thừa tông giáo từ Trần
Nhân Tông đến các tổ.
Nhân
Tông xuất gia, đi khắp nơi dẹp dâm từ, thí hành thập thiện, hướng đạo văn hoá
nước nhà, cứu khổ cho muôn dân. Trong một lần du hoá đó, Trần Nhân Tông đã gặp
Thiện Lai mà sau này đặt tên hiệu là Pháp Loa. Thấy Thiện Lai nhục cốt biểu
trưng bậc có pháp khí, có khả năng truyền đèn nối lửa, thiệu đăng tông phong,
Nhân Tông đã rất vui nhận làm đệ tử. Về sau, nhân duyên nhận Huyền Quang cũng
thế. Huyền Quang theo làm thị giả cho Bảo Phác, Nhân Tông nhìn thấy, mới bảo
Huyền Quang theo ngài. Từ đó, Huyền Quang theo thị giả cho Nhân Tông. Nhân
duyên với đạo đã gắn 3 vị tổ lại thành một tuyến tính, một mối liên kết lấy Đệ
nhất tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông làm trung tâm. Hai vị lại sau đều là đệ tử, mà
trong rất nhiều tranh minh hoạ kinh sách Phật giáo đều vẽ khắc lại hình Nhân
Tông ở giữa, hai bên là Pháp Loa và Huyền Quang[14]. Đến như việc giảng dạy,
việc hướng dẫn tu tập… Nhân Tông cũng rất chăm chú chỉ dẫn cho học trò, nào đọc
kinh gì, điểm nhãn để Pháp Loa chứng ngộ, vì Pháp Loa thuyết giảng Đại Tuệ ngữ lục….[15]. Sau, khi Nhân Tông thị tịch,
làm lễ Vu Lan cầu siêu thoát, Pháp Loa nhắc nhở Huyền Quang: “di chúc của Điều Ngự, ngươi quên rồi ư?”,
cho thấy, sự gắn kết và truyền thống nối đèn nối lửa cửa chư tổ[16]. Trước, Nhân Tông đã ban
cho Pháp Loa ‘Kinh sử ngoại thư” trăm
hòm cùng Đại tạng tiểu thừa gồm 20
hòm chích máu viết cùng sau này, Anh Tông lại giao tiếp cho Đại tạng kinh 500 hòm nữa[17]. Tất cả số kinh sách này
cho thấy: Nội điển được các sư tham học và sử dụng rất nhiều. Đây cũng chính là
cơ sở cho sự phát triển tư tưởng Phật giáo thời Trần cũng như nhiều sách Công
văn - Thích điển mà đến nay tăng chúng vẫn dùng có căn nguyền từ giai đoạn này[18].
Điều
đặc biệt Thanh Mai Viên Thông tháp bi
còn ghi lại một cuộc truyền giao ngôi trụ trì cũng chính là truyền giao ngôi Đệ
nhị tổ ở chùa Siêu Loại giữa Điều Ngự Trần Nhân Tông với Pháp Loa để chúng ta
nhìn nhận về lễ nghi tôn giáo phát triển triều Trần: “Ngày 1 tháng giêng năm Hưng Long thứ 16 (1308) Sư phụng mệnh làm lễ
truyền thừa Tự pháp trụ trì Cam Lộ đường
chùa Siêu Loại, liệt vị các tổ, tấu đại nhạc, thiêu hương thơm, Điều Ngự dẫn sư
bái tổ đường, lễ xin cháo xong, lại mệnh tấu nhạc, đánh chuông pháp, tập hợp đại
chúng, lên pháp đường. Bấy giờ Anh Tông xa giá đến chùa, sắp xếp ngôi vị chủ
khách. Anh Tông là một đàn việt lớn trong Phật pháp nên ngồi ngôi vị khách, ở
trên pháp đường, trên quan tể tiếp đến quan thứ liêu, đều ngồi dưới sân. Điều
Ngự lên toà thuyết pháp, thuyết xong thì xuống, giúp sư (Pháp Loa) lên trên
toà. Điều Ngự đối diện chắp tay vấn tấn, Sư đáp lại bằng lạy tạ, nhận pháp y rồi
mặc lên người, Điều Ngự bèn ra ngồi bên ghế hướng bên mà nghe sư thuyết pháp. Lấy
chùa Siêu Loại thuộc sơn môn Yên Tử mệnh cho Sư kế nhiệm trụ trì làm Trúc Lâm đời
thứ 2”[19].
Qua hành lễ cho thấy, sự chuyển giao thế hệ không chỉ trong sơn môn pháp phái
mà còn được sự minh chứng của vua Anh Tông cũng như quan lại triều đình là các
bậc đàn na tín thí về vị Đệ nhị tổ Pháp Loa tại chùa Siêu Loại.
Việc
truyền thừa các tổ Trúc Lâm từ y bát cùng thư tâm kệ giao phó lại cho Pháp Loa
cùng giáo dạy lại phải hộ trì Phật pháp. Việc truyền thừa này có lẽ chính là
trao truyền pháp kệ của các tổ, chứ không đồng nhất với bài kệ truyền khi thị tịch.
Bởi thị tịch là tiếng nói cuối cùng ở đời để rồi thiền tăng thoát li khổ hải về
với chốn Phật. Bài pháp kệ này đến nay rất ít thấy trong các thư tịch Phật giáo
như Thánh đăng lục, hoặc Tam tổ thực lục, bởi có sự biên soạn qua
lại, thêm bớt. Trong Kiến tính thành Phật,
tờ 50 a – 50 b soạn bởi Chân Nguyên, một thiền sư kế nối tông Trúc Lâm Yên tử
thời Lê, tu tập ở chùa Long Động – Hoa Yên trên núi Yên tử đã ghi chép lại bài
kệ truyền thừa này. Chúng tôi dẫn bài kệ từ Trần Nhân Tông như sau:
故越國竹林第一祖淨慧調御覺皇了一偈
我佛本無一
心法亦不二
八字直打開
一乘無巴鼻
Dịch nghĩa: Cho nên, Trúc Lâm Đệ nhất tổ Tịnh Tuệ Điều Ngự
Giác Hoàng nước Việt hiểu rõ bằng một bài kệ:
Ta và Phật vốn không là một
Tâm và pháp cũng chẳng phải là hai
Tám chữ thẳng thắn mở ra
Một cỗ xe nhất thừa không sở đắc[20].
Đến
bài kệ của Đệ nhị tổ Pháp Loa Phổ Tuệ Đại sư như sau:
心法等空花
佛我如電拂
舉起遍十方
滅了無可得
Dịch
nghĩa:
Tâm và pháp như hoa không
Phật và ta như điện sẹt qua
Nhìn khắp cả mười phương
Diệt hết không thể được
Bài
kệ của Đệ tam tổ Huyền Quang tôn giả:
悟道無住心
見性無住佛
心佛非兩端
本來無一物
Dịch
nghĩa:
Ngộ đạo không trú tâm
Thấy tính chẳng ở Phật
Tâm và Phật chẳng phải hai đầu mối
Xưa nay không một vật.
Trong Kiến
tính thành Phật, sắp xếp các bài kệ này nối liền với truyền thống kệ truyền
của các tổ Phật tây phương đến 6 vị tổ Thiền tông đông độ. Việc kế nối kệ truyền
mang tính chất xuyên suốt tư tưởng Tâm, Tính và Phật tính, Phật, Pháp trong mỗi
thiền sư. Quán xuyến tất cả vẫn là chư tổ nối chư tổ, các bậc cổ đức đàm đạo đạo
với nhau bằng vô ngôn mà thông. Truyền đèn nối lửa, tạo nên truyền thống Trúc
Lâm Yên Tử bằng mạch dây kiến tính thành
Phật từ Nhân Tông đến Huyền Quang và các thế hệ về sau. Đây cũng chính là
điểm tạo nên truyền thống Trúc Lâm và Nhân Tông đệ nhất tổ trong lịch sử Phật
giáo Trúc Lâm Yên tử nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung.
V.
Sơ luận tư tưởng Trần Nhân Tông
Nhân
Tông, từ ngôi vị Hoàng đế đến ngôi vị Phật hoàng. Nhân Tông từ vương quyền đến
thần quyền…. Trên phương diện nào thì con người Nhân Tông vẫn hiển hiện với tư
tưởng, tình cảm và con người Đại Việt, lấy vận mệnh đạo pháp và dân tộc hoà
chung trong một bản trường ca là Phật giáo Nhập thế. Xét bình diện tư tưởng Phật
giáo, để nhìn nhận con người thiền sư Nhân Tông, chúng ta từng bước nhìn nhận lại
vị thiền sư này đã ngồi trên toà sen cửu phẩm, ngôi giữa mà hai bên là nhị và
tam tổ thị giả cho ngài trong truyền thống Trúc Lâm.
Tính
từ kệ truyền thừa đã trích dịch ở trên, cho thấy mạch nguyên nối kết các tổ
chính là vấn đề liễu rõ bản Tâm, vấn đề Tâm Tính, vấn đề tự thân và Phật là đồng
dị….. Nhân Tông khi đã hiểu rõ “sinh diệt
diệt dĩ, tịch diệt vi lạc” – 8 chữ đó thì mọi sự đã được viên thông. Khi đó
Phật chính là Nhân Tông, Tính chính là Nhân Tông, Tâm pháp là Nhân tông đều bất
nhị. Từ đồng nhất thể, thân và Phật để thấy rõ Tâm pháp cũng chẳng phải là sai
biệt, Nhân Tông kế nối truyền thống chư tổ thiền để luận thuật tâm tông. Một
tác phẩm khác là Cư trần (lạc đạo) Nhân Tông đã viết:
了真如信般若莫尚尋佛祖西東
證實相達無為何勞問經禪南北
Rõ chân như, tin Bát-nhã, chớ còn tìm Phật Tổ Tây Ðông.
Sau đó Chân Nguyên thiền sư nhận định về Tâm Tính học
của Trúc Lâm Đệ nhất tổ : «Khiến người
người phản bản hoàn nguyên, cho kẻ kẻ hồi quang tự ngộ. Chỉ
chín chắn quán xét sâu xa, rõ được tột người người là Phật, ngộ tâm tông Phật
Phật là người. Xin hãy đều thẳng đó đương đảm, chớ chạy đuổi bên ngoài tìm kiếm». Đây cũng chính là tông chỉ truy tìm tự
thân của Phật giáo Trúc Lâm. Vấn đề bản tâm, tâm tính. Tu là chuyển nghiệp,
nhưng chuyển về đâu? Tâm là Phật, vậy an tâm thế nào? Các câu hỏi đặt ra cũng
chính là câu trả lời như bài kệ «八字直打開一乘無巴鼻 nhất
thừa trực đã khai, nhất thừa vô ba tị» của Trần Nhân Tông như đúc kết cho liễu giải của
ngài về Tâm về Phật để quán suốt xưa nay không một vật đồng với chư Phật chư tổ!
Thực
chất tâm tông đó là nối từ chư tổ Thiền tông đến người học đạo – Thiền sinh. Bản
thân Nhân tông được Chân Nguyên Thiền sư trong Bát nhã chính tông ca nhận định về đạo học đấy là nhìn thẳng vào bản
tâm, như sau:
“Tổ Trúc Lâm chỉ thẳng tâm
Điều Ngự tông giáo xưa mà nay”[22]
Vấn
đề Tâm trong tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông là một xuyên suốt để nhìn thấy
ánh sáng giác ngộ, nhìn thấy con đường chứng đạt về cội nguồn chư Phật, cứu độ
tự thân. Tâm chính là Lòng người, là tâm thể, là bản tâm. Trong Cư trần lạc đạo, Nhân Tông nhiều làn đề
cập đến Tâm – lòng:
Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm
Đạt một lòng thì thông tổ giáo.
Đấy
chính là lòng tự tại, lòng thông suốt trong veo thanh tịnh chứng đạt vô
vi. Sự chứng đạt này dựa trên nền tảng của
cái bình thường Tâm thị đạo Phật truyền
Đông Độ qua Đạt Ma đến Lục tổ để thiền tông thịnh trị. Mã tổ Đạo Nhất đề sướng bình thường tâm thị đạo tạo nên tông
phong các phái y theo tu tập để giác ngộ thiền cơ. Nhân Tông hiểu rõ lẽ nhân
sinh qua nhân sinh quan của bậc Thượng trí đứng đầu quốc gia dân tộc, ngài hiểu
rõ lẽ thiền kế đăng Thần quyền tông giáo để nhận định vấn đề con người:
Cư
trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ
tắc san hề khốn tắc miên
Gia
trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Chỉ
với một chữ Tâm đã quán suốt toàn bộ tư tưởng thể hiện trên hệ thống tác phẩm
cũng như hành trì vận đạo vào cuộc sống thường nhật của Trần Nhân Tông Trúc Lâm
Đệ nhất tổ. Câu cuối của Cư trần lạc đạo như đúc kết tất cả: ‘đối cảnh vô tâm đừng hỏi về Thiền’ đã
nói lên tông chỉ về bản thể triết học, tư tưởng Trần Nhân Tông về vấn đề Chân
Như, bát nhã, Thực tướng ….tất cả đều từ Tâm mà ra.
VI. Tạm kết.
Phật
giáo từ tự giác giác tha, đến giác hạnh viên mãn cũng như đạo Nho ban đầu phải
là tự tu, tự giác bản thân thì Trần Nhân Tông từ vấn đề tự thân ngài đã đưa lên
thành vấn đề quốc gia dân tộc. Từ vấn đề của cá nhân, đến Điều Ngự Phật đã
thành mang tính chất xuyên suốt lại, tạo nên tông phong Trúc Lâm Yên Tử, thống
nhất đạo Phật về một mối với tính chỉnh thể, gắn liền đạo - đời. Từ Vương quyền
với Thần quyền để giải quyết các vấn đề quốc gia dân tộc, Nhân Tông đã nối kết
lòng người không chỉ trong nước mà cả biên cương, không chỉ thời gian mà cả
không gian để ngài mãi mãi là Thiền gia long tượng của người Việt.
Viết tại Thiền Phong viện
Tài liệu tham khảo:
1.
Tam tổ thực lục kí hiệu A. 786 Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(và bản Tam tổ thực lục, bản in bởi
Diệu Trạm Thiền sư chùa Pháp Vũ, huyện Ninh Giang, Hải Dương năm 1897).
2.
Thiền uyển truyền đăng lục, Phúc Điền hoà thượng, kí hiệu VHV. 9, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm.
3.
Khoá hư lục, bản in bởi Việt Nam Phật điển tùng san,
Hà Nội. 1943.
4.
Kiến tính thành Phật, Chân Nguyên thiền sư, kí hiệu A. 2570,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
5.
Thanh Mai Viên Thông tháp bi chùa Thanh Mai, Đại Việt sử kí toàn thư
Nxb KHXH- 1998.
6.
Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nguyễn Hùng Hậu, NXB KHXH, H.1997.
7.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam , Viện
Triết học, NXB KHXH, H.1988.
8.
Tam tổ Trúc Lâm giảng giải, Thích Thanh Từ, NXB Tổng hợp TPHCM,
2005.
9.
Toàn tập Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát, NXB TPHCM, 2000.
10.
Toàn tập Trần Thái Tông, Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TPHCM, 2004.
11.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ Lý Thánh
Tông (1054) đến Trần Thánh Tông 91278), Lê Mạnh Thát, NXB TPHCM, 2000.
12.
Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, NXB Văn học, H. 2000.
13.
Thơ văn
Lý Trần, tập II, Viện Văn học, Quyển
thượng. NXB KHXH, H.1989.
[1] Thiền uyển truyền đăng lục,
(VHV.9) cho rằng, năm Nhân Tông 16 tuổi, đã 3 lần từ chối làm Thái tử (固辞再三 cố từ tái tam) mà Thánh Tông không đồng ý.
[2] Nguyên văn: 凡為人君者以天下之欲為欲以天下之心為心 Phàm vi nhân quân giả, dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi
tâm vi tâm – Phàm là bậc vua phải lấy cái
muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm lòng
mình.…(Trần Thái Tông ngự chế Khoá hư, bản in, Việt Nam Phật điển tùng san,
1943).
[3] Theo Đệ nhất tổ thực lục,
tờ 1a, sách Tam tổ thực lục, bản in bởi
Diệu Trạm thiền sư năm 1897. Sau này trong Thiền
uyển truyền đăng lục tờ 8b, quyển hạ, Phúc Điền hoà thượng, bản in, kí hiệu
VHV. 9 Viện Nghiên cứu Hán Nôm có nhắc lại.
[4] Theo Đệ nhất tổ thực lục,
tờ 1b, sách đã dẫn và trong Thiền uyển
truyền đăng lục tờ 8b, quyển hạ, sách đã dẫn.
[5] Theo Đệ nhất tổ thực lục,
tờ 2a, sách đã dẫn và trong Thiền uyển
truyền đăng lục tờ 8b, quyển hạ, sách đã dẫn.
[6] Xem Thanh Mai Viên Thông tháp
bi, thác bản tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, trong Văn khắc Hán Nôm thời Trần,
Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
[7] Theo Thanh Mai Viên Thông
tháp bi, thác bản lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
[8] Trúc
Lâm Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục, bản in năm 1683,
bản in lại bởi Diệu Trạm Thiền sư năm 1897 tại chùa Pháp Vũ huyện Ninh Giang tỉnh
Hải Dương.
[9] Thiền uyển truyền đăng lục
tờ 8b, quyển hạ, Phúc Điền hoà thượng, bản in, kí hiệu VHV. 9, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm sách đã dẫn.
[10] Toàn tập Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát, , trang 484, nxb Tp HCM,
2006.
[11]支提 Chi đề, phạn ngữ CAITYA, còn gọi là Chế đề, chế đa : nơi tụ tập tăng
chúng lại để giảng giải, tương tự với chùa, với tháp làm trung tâm,
[12] Tam tổ thực lục, tờ 3a, Đệ
nhất tổ thực lục, bản in bởi Diệu Trạm năm 1897, sách đã dẫn.
[13] Tam tổ thực lục ghi: 至布政寨立知見庵以居 chí Bố Chính trại, lập Tri Kiến am dĩ cư” – Đến trại Bố Chính, lập
am Tri Kiến để ở, tờ 3a, Đệ nhất tổ thực lục, sách đã dẫn.
[14] Như tranh bìa sách Tam tổ thực
lục, Kiến tính thành phật, sách đã dẫn.
[15] Thanh Mai viên thông tháp bi,
đã dẫn.
[16] Thanh Mai viên thông tháp bi,
đã dẫn.
[17] Xem Thanh Mai viên thông tháp
bi, đã dẫn.
[18] Như các sách: Thích điển biện
công văn, Tạp tiếu chư khoa, Bảo Đỉnh hành trì…
[19] Thanh Mai Viên Thông tháp bi,
Tam tổ thực lục đều ghi lại việc này.
[20] Nguyên văn 無巴鼻Vô Ba Tị: Đại ý cái chỗ vô sở
đắc như Đức Dị Đàn Kinh tự có câu: Tận
đắc vô ba tị (dẫn theo Phật học Đại từ điển – Đinh Phúc Bảo).
[21] Kiến tính thành Phật, A.
2570, sách đã dẫn. Điều lạ là, trong Kiến tính thành Phật dẫn rằng: «cố Cư trần
Điều Ngự tổ vân – cho nên trong Cư trần, tổ Điều Ngự nói», nhưng rõ ràng
khi chúng tôi so sánh với Cư trần lạc đạo, bản in bởi Sa di ni Diệu Thuần năm Cảnh
Hưng 6 (1745) thì thấy có sự dị biệt với văn bản Hán trong Kiến tính thành Phật:
Biết chân như tin bát nhã, chớ còn tìm Phật
tổ tây đông, Chứng thật tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền nam bắc. (Cư trần lạc đạo, hội 4, câu 48, 49).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét