Thứ Ba, 24 tháng 4, 2012

Chữ Nôm và sự nghiệp “Việt hóa” Phật giáo


Chữ Nôm và sự nghiệp “Việt hóa” Phật giáo
Thiền Phong
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Là một trong hai chữ viết chính của thời đại phong kiến Việt Nam, chữ Nôm có vai trò quan trọng trong hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá; đồng thời thúc đẩy quá trình thuần thục văn hoá trong biến chuyển kinh tế từng giai kì và diễn dịch văn học Việt Nam. Quá trình đó, chữ Nôm có vai trò không nhỏ với việc truyền bá, bảo lưu văn hoá Phật giáo.
Truyền thống Phật giáo với các kinh điển Nội điển chú trọng vào ngôn ngữ âm Hán. Trong thư tịch Thiền tông, âm Hán tạo nên sự hàm súc trong ngôn ngữ để nghe, suy nghĩ và hành động được những căn cơ gần với các tổ, bậc cổ đức để hướng đạo các thiền sinh sớm chứng ngộ vào cõi Phật đà. Đạo Phật truyền vào đất Việt rất sớm không chỉ trên phương diện lễ nghi tư tưởng mà cả kinh sách nội điển. Kinh sách Phật giáo Đường Tống cũng như tông phái Thiền Tông truyền vào Đại Việt và hưng thịnh thời Lý Trần. Gắn liền với truyền thống nghìn năm phát triển dân tộc, người Việt đã tiếp thu chữ Hán để sáng tạo chữ Nôm và sử dụng trong cuộc sống đa chiều, đa diện của người Việt. Chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu người Việt trên phương tiện chuyển tải cuộc sống tinh thần cả nghìn năm qua. Thiền Tông tu đạo trong văn - tư - tu không ngờ khi tiếp xúc văn hoá Việt đã được Nôm hoá thành Thiền tông Việt Nam.
Cũng như tại Trung Quốc, Phật giáo Thiền Lâm Tế phát triển mạnh và chú trọng ngữ lục, minh, kệ thì tại Việt Nam, sau khi du nhập, vẫn bảo nguyên cốt lõi là Lâm Tế, bên ngoài đã được bao bọc một lớp sơn mới Thiền Trúc Lâm. Một nghìn năm phát triển, không dừng lại trong kinh kệ và truyền thống văn hoá đất Việt, in đậm trong tín ngưỡng lễ nghi mà hệ thống thư tịch còn đến ngày nay cho thấy văn học Phật giáo viết bằng chữ Nôm rất phát triển.
Chữ Nôm gắn với truyền thống Phật giáo nghìn năm qua, thư tịch kinh điển hướng dẫn sự tu đạo cũng như truyền bá tư tưởng, tín ngưỡng. Văn học chữ Nôm Phật giáo có ý nghĩa thiết thực với cuộc sống người Việt. Như thế, Chữ Nôm đã mang vai trò to lớn của nó trong việc gìn giữ và phát huy văn hoá dân tộc, đặc biệt trong việc phát huy sự hữu ích của tông giáo Phật giáo.
Những thư tịch Phật giáo còn đến ngày nay rất nhiều, giai đoạn sớm thời Lý Trần chữ Nôm đã sớm xuất hiện trên văn bia, như bia chuông chùa Vân Bản: “Vân bản tự chung minh”, bia chùa Báo Ân “Chúc Thánh Báo Ân tự bi” khoảng cuối thế kỉ 12 đầu 13; “Báo Ân thiền tự bi kí”…. bắt đầu cho thấy chữ Nôm đã được dùng trong văn bản tôn giáo, ghi chép ruộng Tam bảo. Đây là những tư liệu thành văn đầu tiền của ngôn ngữ chữ Nôm Việt Nam đến nay còn lại.
Thực tế cho thấy, văn học Việt Nam thời phong kiến, những tác phẩm còn đến ngày nay nhiều phần là tác phẩm Phật giáo, trong đó văn học chữ Nôm chiếm địa vị không nhỏ, và có ý nghĩa đặc biệt trong nghiên cứu văn hoá, ngôn ngữ người Việt. Cư Trần Lạc Đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, của Trần Nhân Tông, Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang… là những bài thơ văn Nôm thời Trần còn đến ngày nay thể hiện người tu hành đã dùng văn Nôm để thể hiện tu chứng của bản thân hành giả trong quá trình tu tập. Sự giác ngộ được các vua Trần, hệ phái Tam tổ Trúc Lâm thể hiện mỗi người mỗi kiểu, nhưng vượt qua khả năng diễn đạt của ngôn ngữ Hán. Các tác phẩm này được khắc in lại năm 1745 tại chùa Liên Hoa (tức chùa Liên Phái ngày nay) mà học giả Hoàng Xuân Hãn khi nghiên cứu ba bài văn này đã nhận định “tôi tin rằng ba bài văn Nôm kia thật của những tác giả mà bản khắc năm 1745 đã mách”, tức là chứng thực tác giả là Trần Nhân Tông, Huyền Quang.
Bài cư trần lạc đạo với 10 hội thể hiện Trần Nhân Tông trong quá trình tu tập chứng ngộ đạo pháp từng cung bậc, với văn phong hàm súc đầy chất trí tuệ và từ bi. Đây là một trong những văn bản cổ của văn chương của người Việt còn lưu giữ được. Trong đó cho thấy nhà thơ – nhà tu hành không dừng lại ở việc dẫn dụ con đuờng thành đạo mà hướng thượng bằng hệ thuyết tư tưởng Phật giáo. Tư tưởng Thiền chính là cuộc sống bình dị của con người tu hành đắc đạo. Truyền thống tu hành và phát dương Tông giáo của Thiền phái Trúc Lâm nối kết, xiển dương giáo pháp chứng ngộ trên hệ thống văn Nôm. Nhà thơ từ trong bụi bặm mà vui với đạo, thể hiện tinh thần nhập thế, tự tính giác ngộ lẽ chân như:
Mình ngồi thành thị.
Nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính.
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. …
(Câu 1 – 4, hội 1, Cư trần lạc đạo phú)
Từng bước bóc tách để lộ bản lai chân diện lục của tự thân hành giả trên con đường tu tập:
Giữ tính lặng thì tính mới yên. Nén được sự nghĩ lầm thì lòng không sai
Quên cái thân giả đối thì thực tướng sáng bền. Diệt hết lòng tham, lòng giận, thì hiểu rõ lòng mầu nhiệm
Tĩnh độ ở trong lòng sạch của mình nếu giữ được lòng yên lặng; mình đã có Phật tính rồi. (câu 15 - 22, hội 2, Cư Trần lạc đạo phú)
Đến Đệ tam tổ Huyền Quang qua bài phú vịnh chùa Hoa Yên thì người tu hành trên đỉnh non Yên Tử đã đi từ con đường thực tại của thầy để rồi giác ngộ thực thể của tự thân giữa nội cảnh và ngoại vi, thấy rõ chân như bản tính. Buông niềm trần tục
Náu tới Vân Yên
Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ
Gió tiên đưa đôi bước thần tiên
(Câu 1 – 4, Vịnh hoa Yên tự phú)
Để rồi kết kệ:
Rũ không thay thảy áng phồn hoa
Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà
Khuya sớm sang chong đèn bát nhã
Hôm mai rửa sạch nước Ma ha
Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại
Thế sự hiu hiu gió thổi qua
Cốc được tính ta nên Bụt thật
Ngại chi non nước cảnh đường xa.Đặc biệt trong các bài phú của Thiền Trúc Lâm các tổ đã sử dụng hình thức kết thúc cho mỗi bài phú một bài kệ, đây là sự đúc kết nội dung và sở chứng của người tu hành mà sự biểu đạt chỉ là hình thức ngoại vi. Đệ nhất tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông nhấn mạnh ở lẽ “bình thường tâm thị đạo” của truyền thống tông giáo. Đấy là việc ở trong cảnh bụi trần mà không nhuốm tục:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tác miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
(Ở trong đời vui với đạo tuỳ theo duyên gặp,
Đói thì ăn, khát thì uống, khó khăn thì ngủ.
Trong nhà có của báu cần gì đi tìm ở đâu,
Trước cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.)
Sau thời Lý Trần, Phật giáo từng bước suy thoái và dần dần chuyển vào địa hạt dân gian, đây cũng chính là bước chuyển biến mới. Sự kết hợp Nho Phật Lão sinh ra tín ngưỡng bản địa thêm phong phú. Thiên tai và nhân họa trải qua, các trác phẩm của thời đại Lý Trần đến nay còn không nhiều, trong đó những tác phẩm Nôm có giá trị học thuật cao, mà thời sau ngôn ngữ và tư tưởng không đạt được đến như thế. Một thời đại mấy trăm năm, văn chương tồn tại đến ngày nay phần nhiều là tác phẩm Phật giáo, hoặc viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm nhưng rất có giá trị học thuật và ý nghĩa lịch sử.
Nhận định về văn học Phật giáo Lý Trần nói chung và Văn học chữ Nôm thời kì này nói riêng, Giáo sư Vu Tại Chiếu - Đại học Trịnh Châu – Trung Quốc phát biểu rằng: “Trên văn đàn Việt nam thế kỉ X – XII, các nhà sư là lực lượng nòng cốt sáng tác thơ văn… Hầu như tất cả tác phẩm chữ Nôm trong thời kì ban đầu của văn học chữ Nôm bây giờ vẫn giữ được đều là do các đại sư Phật học sáng tác”. Đây là một nhận định khách quan và đúng đắn khi nhìn nhận về văn học Phật giáo Lý Trần. Trong Lịch sử Văn học Việt Nam thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII, chủ biên bởi Giáo sư Đinh Gia Khánh cũng nhận định: “Cho đến nay chúng ta vẫn chưa thấy được một tác phẩm Nôm chắc chắn thuộc đời Trần mà lại không phải là của nhà chùa”.
Sau thuộc Minh, Phật giáo dần dần chuyển hoá và từng bước phát triển theo chiều rộng, tông phái đứt đoạn nhưng cội rễ thêm sâu trong lòng văn hoá dân tộc. Lê sơ thịnh trị Nho giáo nhưng Phật giáo vẫn chiếm những địa vị trong văn đàn. Nói một cách khác, Nho giáo độc tôn về chính trị, nhưng mặt tư tưởng thì chuyển hoà trong Tam giáo. Đây cũng chính là mối ràng buộc về tư tưởng trong các triều đại Việt Nam. Thời thịnh trị Lê Thánh Tông đã viết “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” chép trong sách Thiên Nam dư hạ tập, cho thấy sự thấm nhuần tư tưởng Phật học của vị vua Nho giáo này. Hiện nay, các học giả từng bước bóc tách rằng: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nhiều nhà văn nhà thơ giai đoạn Lê Sơ đều thấm nhuần tư tưởng Tam giáo. Trong đó Phật giáo có ý nghĩa thiết thực với cộng đồng nhân sinh, và thực chứng là những tác phẩm Nôm, trong văn thơ Nôm thời Hồng Đức cũng như hệ tư tưởng của họ trong văn bản Hán.
Từ thời Trung hưng về sau, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ. Nhận định giai đoạn này, Phó giáo sư Trịnh Khắc Mạnh trong bài viết Hội Nghị Quốc tế về chữ Nôm năm 2006 nhấn mạnh: “Các triều đại nhà nước phong kiến ở Việt Nam phát triển lúc thịnh lúc suy; nhưng văn học Việt Nam nói chung và văn học chữ Nôm nói riêng, lại có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều điểm mới trong sáng tác văn học nghệ thuật được hình thành về cả giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật. Văn học chữ Nôm phát triển toàn diện về chất lượng nội dung và số lượng tác phẩm”.
Không chỉ văn nhân sĩ đại phu trong sáng tác văn học chữ Nôm với hệ tư tưởng Phật giáo, mà các nhà sư, nữ sĩ cũng tham gia văn đàn, khiến cho bộ mặt văn học nghệ thuật Văn học Phật giáo bằng chữ Nôm đa dạng về trong thể hiện. Sau khi truyền vào đất Bắc, Phật giáo Lâm Tế Đại việt phát triển mạnh mẽ, kinh sách được chuyển từ Trung Quốc về và được diễn Nôm cho dễ hiểu, dễ đọc. Điều đó dẫn đến những tác phẩm Nôm đặc sắc của giới Tăng ni cũng như văn nhân sĩ phu. Phật Thuyết phụ mẫu ân trọng kinh, cùng các kinh sách diễn âm của Hương hải Thiền sư là những thành quả rất cao trong biên dịch kinh kệ ra chữ Nôm. Hương Hải đã biên dịch Nôm các kinh sách như Sự lí dung thông, A di đà diễn âm, Kinh Kim cương diễn âm,…. Đồng thời, Hoàng thân quốc thích Lê triều cũng tham gia chốn thiền môn, giác ngộ lẽ chân như. Trần Thị Ngọc Am là vợ chúa Trịnh Tráng là trường hợp như thế khi bà theo Chuyết Chuyết tổ sư đắc pháp và viết 13 bài kệ truyền trong Chuyết Chuyết Thiền sư ngữ lục.
Dưới đây là bài kệ thứ 4:
Hựu kệ:
Tự tính chính sự ở trong lòng,
Phật vô Nam bắc lẫn Tây đông.
Dầu xa nghìn dặm cùng chăng có,
Di Đà phật tính chính ở lòng.
Lâm Tế tông phát triển rồi kéo theo sự phục hồi thiền phái Trúc Lâm, Chân Nguyên Thiền sư là điển hình cho tác giả văn học Phật giáo thời Lê. Sống cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII, Chân Nguyên là đệ tử đời thứ 3 dòng Lâm tế Đại Việt, chính ông đã viết nhiều tác phẩm Nôm, biên soạn lại hệ thống thư tịch của Tam tổ Trúc Lâm. Ông đã để lại nhiều tác phẩm Nôm như: Tôn Sư Pháp Sách Đăng Đàn Thọ Giới, Nghênh Sư Duyệt Định Khoa, Thiền Tông Bản Hạnh, Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh, Thiền Tịch Phú, Đạt Na Thái Tử Hạnh, Hồng Mông Hạnh….
Riêng sách Thiền tông bản hạnh, kể về sự tích Thiền tông và cuộc đời tu hành của các vua từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông. Văn bản Thiền Tông bản hạnh được in cùng các tác phẩm như Cư trần lạc đạo phú, Vịnh Hoa yên tự phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca vào năm 1745 tại chùa Liên Hoa bởi Sa di ni Diệu Thuần. Thiền tông bản hạnh với văn phong đơn giản nhưng thấm nhuần ngôn ngữ Phật giáo, đồng thời thể hiện tinh thần nhập thế của tác giả một nhà tu hành. Vua chúa công hầu được trích dẫn như đề từ cho thời đại của bản diễn Nôm:

Bụt sinh Hoàng giác Lê gia
Thánh chúa vỗ trị gần xa lai hàng
Bốn phương gió tắt lửa lang
Phong điều vũ thuận dân khang thái bình
Văn phong thể hiện một thời thịnh trị thái bình dưới sự cai quản của vua Lê Hi Tông và chúa Trịnh. Đạo pháp dân tộc cùng hướng đến:
Tiêu dao khoái lạc chẳng âu
Bất sinh bất diệt ngồi lầu toà sen
Ngoài Hương Hải, Chân Nguyên các tác gia văn học khác cũng là những người thấm nhuần thời đại, hiểu lẽ vô thường của nhân sinh. Phạm Thái ban đầu là nhà Nho, sau xuất gia ở chùa Tiêu Sơn - Quế Võ - Bắc Ninh, lấy đạo hiệu Phổ Chiêu thiền sư, ông đã viết nên những áng văn chương đau buồn về thời thế và cuộc đời, thấm nhuần tư tưởng Trí Bi của đạo Phật trong tác phẩm Văn triệu linh, đặc biệt là Sơ kính tân trang:
Tu hành nhờ đức Thế tôn,
Ắt say sưa đạo lại buồn bồng duyên
Lọ là khấn vái tiên thiên
Cậy quan âm với mục lien xót tình….
Ối nao ôi! khổ tu hành
Biết Tây phương có dạng hình nay không.
Cùng thời, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều, được coi là áng văn chương bất hủ, thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Trong tác phẩm, là sự dung hoà tình yêu, cuộc sống và lẽ vô thường của kiếp người, nhân sinh và thế giới quan bi phẫn thời cuộc của tác giả, thể hiện cuối cùng cái thiện, mối lương duyên cũng ràng buộc con nguời đến những điều tốt đẹp. Ngoài truyện Kiều bằng văn Nôm, Nguyễn Du còn sang tác Văn chiêu hồn ca khúc bi thương cho thập loại cô hồn thoát khỏi tầng diêm la địa ngục:
Đoạn Quý nữ liều thân:
Lên lầu cao xuống dòng nước chảy
Phận đã đành tram gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Có thể nói, văn chương chữ Nôm của Nguyễn Du là những khúc bi thương cho thân phận con người. Ông đã kết lại tinh thần Phật giáo trong văn chương Nôm giai đoạn cuối Lê triều và mở ra thời kì mới văn chương triều Nguyễn. Nhưng chính ông là mạch nối gắn kết hai giai đoạn, mà ảnh hưởng từ tác phẩm của ông còn mãi về sau.
Lê triều là thời kì văn chương chữ Nôm rực rỡ, tác gia phong phú. Trong đó, các sáng tác gắn với hệ tư tưởng hoặc văn phong Phật giáo cũng rất nhiều, bao gồm các văn nhân, nhà sư, vua chúa. Văn chương còn lại đến nay ghi tên tác giả, hoặc khuyết danh. Nhưng tinh thần chung của văn phong thời kì này là tính chất thời đại. Lê triều, thời đồng hành vua chúa và đều tiêu dao chốn am mây chùa vắng, ngắm cảnh tiêu dao. Các chúa như Trịnh Tráng, Trịnh Sâm, Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Cán… thường vui thú yên hà, đi đây đi đó, ban bố ân huệ sắm sanh chùa chiền. Các vị chúa nay còn nhiều tác phẩm thơ văn Nôm truyền đến ngày nay. Trong đó, Trịnh Sâm còn khá nhiều tác phẩm, ông đến danh lam thắng cảnh nào cũng vạch đá đề thơ. Chúa Trịnh Cương thì viết cả tập Lê triều Ngự chế Quốc âm thi, trong đó phần nhiều là thơ ngao du chơi thăm thắng cảnh chùa chiền:
Bài thơ 15:
Nguyệt đường tự thi
(Thơ chùa Nguyệt Đường)
Danh lam từng trải đã hay danh,
Trình độ này âu hợp chuẩn trình.
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp,
Kinh lâu rỡ rỡ diễn chân kinh.
Công nhiều nhờ bởi công vô lượng,
Thế hợp vầy nên thế hữu tình.
Ngăn tục mựa cho mùi tục luỵ,
Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.
Nối tiếp thời đại, Nguyễn triều chấm hết thời phân tranh, cũng kết thúc thời phong kiến và gắn liền thời đại chữ Quốc ngữ. Nhưng văn chương chữ Nôm vẫn âm ỉ tồn tại trong lòng cuộc sống dân tộc đến giữa những năm 50 của thế kỉ XX. Đây là thời đại thống nhất toàn vẹn lãnh thổ dân tộc.
Thư tịch Hán và Nôm ngày nay còn lại phần nhiều là của thời Nguyễn, hoặc in hoặc sao lại. Nhiều văn bản Lê triều còn tồn tại đến ngày nay là do công quả của văn nhân sĩ phu Nguyễn triều. Thống nhất đất nước, nhưng đa dạng trong văn hoá tông giáo. Thời Nguyễn Đạo Phật phát triển nối tiếp hệ phái triều Lê, văn phong và hệ tư tưởng chịu sự chi phối quán xuyến.
Các thiền sư Nguyễn Triều thành danh nhất đã vượt qua cuộc sát hạch dưới thời Minh Mệnh năm 1835 để ban giới đao độ điệp. Trong đó, đáng kể nhất là danh tăng Phúc Điền Hoà thượng. Ông sinh cuối thế kỉ XVIII và cuối thế kỉ XIV mới viên tịch. Gần trăm năm, qua mấy đời vua, Phúc Điền hiểu nhất sự vận chuyển của thời đại và kiếp nhân sinh. Ông dốc mình biên dịch kinh sách chữ Nôm cũng như nhiều thư tịch Hán Nôm khác để quảng bá. Bao gồm các loại sách, kinh sách, lịch sử Phật giáo diễn Quốc âm như: Khoá hư lục Quốc âm, Kim Cương Quốc âm, Thái Căn đàm, Hộ pháp luận, Trúc song tuỳ bút, Tam giáo Nhất Nguyên, Thái căn đàm, Sa di luật nghi giải nghĩa, .... Phúc Điền đã thành công trong việc truyền bá và rộng mở đạo pháp trong thời Nguyễn, văn chương của ông dễ hiểu và thuần phong cách ngôn ngữ Phật giáo.
Ngoài Phúc Điền Hoà thượng còn nhiều tác gia khác biện dịch văn chương chữ Hán thành chữ Nôm như Kiều Oánh Mậu chú giải và in lại Truyện Kiều và diễn âm Hương sơn Quan thế âm chân kinh tân dịch, Nguyên Trai Vũ Đức Huân diễn âm Giới sát phóng sinh, Chu Mạnh Trinh với Hương sơn nhật trình ca, Nguyễn Khắc Thuyết diễn Nôm truyện Từ Đạo Hạnh…. Đã tạo nên một thời kì thịnh trị nhất về văn chương chữ Nôm Phật giáo trong dòng văn học Việt Nam. Tuy ngôn ngữ văn chương chữ Nôm Phật giáo giai đoạn này không hàm súc, phong phú như Lê triều, nhưng phát triển đa chiều đa dạng, không chỉ về thể loại mà còn về cả hình thức. Đồng thời, giai đoạn cuối Nguyễn triều, Phật giáo dung hoà trong tín ngưỡng thờ Mẫu, tạo nên một hệ thống văn chương chữ Nôm thấm nhuần văn hoá bản địa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
Cơ bản thư tịch chữ Nôm văn học Phật giáo còn đến ngày nay là kinh, sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hệ loại tư liệu liên ngành như, văn bia, hương ước, văn khế, điạ bạ… viết bằng chữ Nôm liên quan đến chùa chiền hoặc tín ngưỡng Phật giáo. Riêng hệ thống bia chí chữ Nôm hiện nay tính trong các tỉnh miền Bắc có khoảng hơn 104 chiếc, trong đó văn bia chùa chiền hoặc hang động gắn với chùa là 67 bia, chiếm 64, 42% tổng số bia Nôm. Trong đó đáng kể là 18 bia Nôm ở chùa Phật giáo xã Vĩnh Quỳnh huyện Thanh Trì - Hà Tây. Tác giả trong hệ thống bia Nôm ở chùa hiện nay khảo sát được chủ yếu thời Nguyễn. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là tác giả vua chúa chiếm đến gần 23, 19% tổng số bia trên. Như vậy, tư liệu chữ Nôm về Phật giáo hiện nay rất phong phú và vẫn chưa được khai thác trên nhiều khía cạnh văn học. Sự đa dạng này vượt qua những chuẩn định của văn bản Hán khi áp chế trong văn học quna phương người Việt thời Phong kiến. Chữ Nôm là sản phẩm của người Việt, và đa dạng trong hình thức thể hiện cũng chính là sản phẩm của người Việt.
Nhu cầu cuộc sống cùng thời đại đã sản sinh những áng văn chương chữ Nôm bất hủ. Đồng thời diễn tiến theo từng giai kì cho thấy sự hoàn bị trong sáng tạo thể loại. Một trong những đặc sắc của văn chương chữ Nôm nói chung và văn chương chữ Nôm Phật giáo nói riêng là mặt thể loại. Nếu văn chương chữ Hán bó hẹp trong các thể thơ Đường cùng với đối ngẫu của phú thể thì sự phong phú của thơ Nôm khiến cho đa dạng trong sáng tác và thể hiện ngôn ngữ người Việt. Diễn tiến theo lịch sử cho thấy những tác phẩm văn học chữ Nôm về Phật giáo như: Cư Trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca… là những chuẩn mực về sử dụng sử dụng thể văn biền ngẫu. Đối trong phú Nôm tạo nên những đặc sắc mà văn học Hán không có được. Diễn Nôm khiến cho ngôn ngữ diễn tả được nhiều hơn, cụ thể hơn. Cư Trần lạc đạo là một trong những bài phú kinh điển trong sử dụng chữ Nôm vào sang tác văn chương. Thơ chữ Nôm với nhiều tác phẩm, trong đó thể thơ 6 chữ nối kết thơ Nôm thời Lê sơ như Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập… Trong đó đáng kể các bài kệ của Trần Thị Ngọc Am, cũng như thơ các vua Lê chúa Trịnh, như Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, Trịnh Cương….
Nét đặc sắc nhất của văn chương Phật giáo viết bằng chữ Nôm về mặt thể loại có lẽ chính là các bài phú Nôm, bài kệ Nôm, thơ lục bát chữ Nôm, song thất lục bát chữ Nôm…. Đây là những thể loại mang đậm màu sắc người Việt. Như Truyện Kiều của Nguyễn Du viết bằng thơ Lục bát, trong khi Văn Chiêu Hồn của ông viết bằng thể song thất lục bát. Điều nay cho thấy tác gia văn học được thả mình trong thể loại để sang tác theo cảm hứng thích hợp.
Chữ Nôm ra đời đáp ứng nhu cầu thực tế xã hội và ngôn ngữ người Việt. Nghìn năm trôi qua, văn chương chữ Nôm vẫn đang được khám phá và nghiên cứu. Sự ra đời của chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu của dân tộc trong sự phát triển văn hoá, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt. Văn chương Phật giáo viết bằng chữ Nôm có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển ăn hoá dân tộc mà ngày nay dư âm mãi còn vang vọng. Văn bản vẫn còn, hình tích chưa phai. Chữ Nôm mãi mãi là đứa con tinh thần của người Việt, gắn liền với truyền thống nghìn năm đã qua và về sau.
Phong Phạm Tuấn

T

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

ĐI TÌM DANH VÀ TƯỚNG THIỀN SƯ VIÊN KHÔNG


ĐI TÌM DANH VÀ TƯỚNG THIỀN SƯ VIÊN KHÔNG

Họa sĩ LÊ QUỐC VIỆT

Nhà nghiên cứu Mỹ thuật

PHẠM TUẤN

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Dẫn nhập

Nằm giữa tam giác Phật giáo chùa Dâu (Hán), Kiến Sơ (Đường) và Phật Tích (Lý), nhiều người biết đến chùa Bút Tháp (x. Đình Tổ, h. Thuận Thành, t. Bắc Ninh) như cái nôi của thiền phái Lâm Tế Đàng Ngoài do Chuyết Chuyết - một thiền sư người Hoa truyền vào. Theo Âu Dương Vựng Đăng, một cư sĩ người Hoa viết văn bia 顯 瑞 庵 報 嚴 塔 碑 銘Hiển Thụy am Báo Nghiêm tháp bi minh xác nhận: Trung hưng Thiền phái Lâm Tế đất Đông đô bắt đầu từ Chuyết Chuyết. Chuyết Chuyết sinh năm 1590 người Phúc Kiến, xuất gia theo học Tiệm Sơn trưởng lão, sau đắc pháp từ Trạng nguyên tăng Đà Đà Hòa thượng. Sau khi Lý Tự Thành đánh vào hậu tẩm nhà Minh, trong nước loạn to, Đại Nam bấy giờ cũng rơi vào thời kỳ nội chiến. Khoảng năm 1630, Chuyết Chuyết cùng đệ tử Minh Hành và một số Nho sĩ người Hoa đáp thuyền buôn sang Cao Miên, không lâu sau thì vượt Chiêm Thành sang Đại Việt (Đàng Trong) rồi lục tục ra Đàng Ngoài, trên đường đi, Chuyết Chuyết có khai hóa ra chùa Thiên Tượng ở Nghệ An và Trạch Lâm ở Thanh Hóa. Năm 1633, thầy trò ra đến Đông Đô được Thần Tông, Thanh vương nhiệt thành đón tiếp và mời ra trụ trì chùa Khán Sơn mở trường giảng pháp, được một thời gian thì dời đạo tràng về chùa Phật Tích (Kinh Bắc). Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (Pháp Tính) cùng con gái là Quận chúa Lê Thị Ngọc Duyên (Diệu Tuệ), Đệ nhị cung tần của Thanh vương là Trần Thị Ngọc Am cùng xuất gia theo học, nhân đó Hoàng hậu xin chồng (vua) và cha (chúa) bỏ tiền dựng chùa Bút Tháp vào năm 1642. Năm sau chùa dựng xong, Chuyết Chuyết từ Phật Tích dời sang làm Thuỷ tổ chùa Bút Tháp thì đệ tử Minh Hành trở thành Viện chủ chùa Phật Tích. Được một năm thì Chuyết Chuyết viên tịch ở tuổi 55, được vua Chân Tông phong hiệu. Minh Hành dựng tháp Báo Nghiêm thờ vọng tại chùa Bút Tháp và an táng chân thân xá lỵ trong một ngôi tháp cùng tên tại chùa Phật Tích (Diệu Tuệ trùng tu lại vào năm 1692). Minh Hành cũng mất vào năm 1659, thọ 64 tuổi.
Ghi chép trên khái quát tình hình truyền giáo hồi nửa đầu thế kỷ XVII của hai thầy trò thiền sư người Hoa tại Đàng Ngoài mà trung tâm Phật giáo tại trấn Kinh Bắc. Dưới sự ủng hộ của triều đình, thiền phái này có cơ hội bành trướng và phát triển thoạt đầu ở một vài thủ phủ Phật giáo, sau đó lan tỏa với một biên độ ảnh hưởng rất rộng, với một phả hệ truyền thừa có tính chính mạch nhưng cũng phân chi lập nhánh phức tạp kéo dài cho đến cuối thời Nguyễn.
Lần giở lại những ghi chép về phả hệ truyền thừa của Chuyết Chuyết, tựu chung có hai nhánh chính, 禪 苑 傳 燈 錄Thiền uyển truyền đăng lục quyển Hạ tờ 20b do Hòa thượng Phúc Điền biên soạn và cho khắc vào thời Nguyễn viết về hệ phái truyền thừa ở chùa Bút Tháp như sau:“北 寧 雁 塔 社 天 福 寺 初 開 始 祖 拙 公 和尚 下 二 傳 明 行 祖 師 下 三 傳 真 住 祖 師 下 四 傳 如 隨 祖 師 -Sơ khai thủy tổ ra chùa Thiên Phúc (Phúc Điền viết nhầm, viết đúng là Ninh Phúc) ở xã Nhạn Tháp tỉnh Bắc Ninh là Chuyết Công Hòa thượng, truyền xuống đời thứ 2 là Minh Hành tổ sư, truyền xuống đời thứ 3 là Chân Trú tổ sư, truyền xuống đời thứ 4 là Như Tùy tổ sư”. Nhưng theo 連 釘 選 佛 場 圖 引Liên đính tuyển Phật trường đồ dẫndo Pháp ấn Sa môn là Tính Ngạn Thích Ngột Ngột (đệ tử của Trịnh Thập) soạn và cho khắc in năm Long Đức thứ 1 (1732) lại dẫn thiền phái theo nhánh của chùa Liên Phái, nhưng cũng chỉ nói đến Trịnh Thập là hết. Thích Ngột Ngột nói: “東 都始 祖 拙 大 和 尚 得 法 於 狀 元 僧 陀 陀 和 尚 傳 至 明 良 傳 至 真 源 傳至 鱗 角 上 士 是 蓮 宗 寺 離 塵 院 之 開 山 始 祖 也 -Thủy tổ đất Đông Đô là Chuyết Chuyết được pháp từ Trạng nguyên tăng là Đà Đà Hòa thượng, trải truyền đến Minh Lương, Minh Lương truyền cho Chân Nguyên Hòa thượng, Hòa thượng truyền tới Lân Giác Thượng sĩ, Thượng sĩ là thủy tổ khai sơn ra chùa Liên Tông viện Ly Trần vậy”. Lại nữa, theo 重 興 蓮 派 寺 離 塵 院 別 誌Trùng hưng Liên Phái tự, Ly Trần viện biệt chí do Tỷ kheo Thanh Trang soạn cũng đồng nhất quan điểm với Ngột Ngột khi cho tông Long Động bắt đầu từ Chân Nguyên, Chân Nguyên truyền cho Thượng sĩ Cao Thiền (tức Trịnh Thập), Trịnh Thập là Tổ khai sơn ra sơn môn Liên Phái. Mỗi tư liệu đều nghiêng theo một hướng truyền thừa và chỉ xác lập được bốn đời bắt đầu từ Chuyết Chuyết, tiếp đó là một diễn tiến phát tán truyền thừa phả hệ theo quan điểm và ghi chép riêng của mỗi chùa.
Đại lược với hai nhánh truyền thừa thoạt đầu cùng một xuất phát điểm tại chùa Bút Tháp nêu trên, tuy chưa thể nêu hết các chi thứ, nhưng cũng đủ biết biên độ khuếch tán của thiền phái này rất rộng trải dài từ Nghệ An lên đến Quảng Ninh như là những trung tâm Phật giáo, phát triển mạnh vào giữa thế kỉ XVII đến hết thời Cảnh Hưng (1786). Chùa Bút Tháp đến nay vẫn còn giữ được vẻ cổ kính gần như nguyên xưa cho dù trải qua nhiều lần canh cải, là điểm giao thoa giữa hai dòng văn hóa Phật giáo Việt - Hoa và là hiện thân tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trang trí bậc thầy thế kỷ XVII. Nếu “du khách lần giở trang hoài cổ, mơ lại ngày xưa xóm Ngự viên”, sẽ khám phá ra thân phận u buồn của lớp hoàng thân quốc thích Lê Trịnh và kiếp sống tu hành lưu vong của những thiền sư, cư sĩ người Hoa.
Như tiêu đề bài nghiên cứu đề cập, trong số những thiền sư thuộc môn nhân thiền phái Lâm Tế, có pho tượng chân dung thiền sư Viên Không được thờ tại chùa, tượng không lấy gì làm đặc sắc về nghệ thuật, nhưng khiến nhiều người nghiên cứu Tôn giáo phân vân khi tiến hành xác minh lai lịch hành trạng pho tượng. Thật dễ dàng xác minh nếu nhân vật đó quá điển hình và được người đời truyền tụng, được sử sách ghi chép cẩn thận hoặc sống không xa hiện tại là bao. Nhưng đối mặt với những nhân vật lịch sử mà nói theo cách nói của các cụ là mất cả danh lẫn tướng, tướng một nơi danh một nẻo, hoặc giả còn tướng mất danh và ngược lại thì để thiết lập lại một hồ sơ hoàn chỉnh về nhân vật được thờ là một vấn đề không dễ dàng chút nào !
Tượng được thờ bằng chất liệu gỗ phủ sơn, tạc trong tư thế ngồi kết già cao chừng 80cm, đặt trong một khám thờ long đình được chạm khắc hoa văn và sơn thếp tráng lệ. Duy nhất trên khám có khắc nổi hàng chữ Hán với nội dung: “南 無 圓 空 菩 薩 直 入 净 土 門 坐 華 藏 龕- Nam mô Viên Không Bồ tát, trực nhập Tịnh độ môn, tọa Hoa tạng khám”
(Nam mô Viên Không Bồ tát, vào thẳng cửa Tịnh độ, ngồi khám Hoa tạng).
Từ nội dung chữ Hán, chỉ có thể xác định bước đầu: Vị thiền sư được thờ trong khám có tên là Viên Không, phẩm phục phản ánh thiền sư không phải là tăng quan. Ngoài ra có hai chi tiết gợi mở rất cần chú ý: a/ Viên Không được đặt bên hữu tượng Chuyết Chuyết, đăng đối với Minh Hành. Vì thế, xét về quy cách bài trí chiêu mục, xác định Viên Không thuộc hàng pháp tôn (cháu) hoặc pháp điệt (chắt) của Chuyết Chuyết ngồi ở giữa; b/ Phong cách nghệ thuật điêu khắc, hoa văn trang trí và nhất là kiểu chữ khắc rất gần với lối viết sắc phong và bi ký thời Lê mạt, cho phép cảm nhận và ước đoán Viên Không sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII nửa đầu thế kỷ XVIII.
Thiền sư Viên Không là ai ?
Bút Tháp giống như chùa Phật Tích, đã từng là một trung tâm in ấn và tàng bản vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVII, nhưng thực sự đáng tiếc đến nay ván và sách đều không còn, thiền phả cũng mất, ngoại trừ sót lại bộ ván áo 六 銖 海 會Lục thùHải hội, 什 物Thập vật và một số ván kinh 觀 音 顯 相 圖 Quan Âm hiển tướng đồ. Cùng vài ba đầu mục sách kinh Phật lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm do Minh Hành và Diệu Thiện tổ chức khắc in, bặt không một thông tin liên đới đến danh tự Viên Không. Rà soát khắp một lượt nội dung văn bia tại chùa cũng không nhắc đến ai có tên như vậy, ngoại trừ và khả nghi một thông tin từ một khoán ước được lập và khắc vào năm Lê Vĩnh Hựu 5 (1739) trên thân tháp Ni Châu (tháp ni sư Diệu Viên) cho biết một người, nhưng người đó lại có tên là 竹 林圓 證 教 授 摩 訶 比 丘 如 隨 禪 師 化 身 菩 薩 - Trúc Lâm Viên Chứng giáo thụ Ma ha Tỷ khưu Như Tùy Thiền sư Hóa thân Bồ tát” ấn chứng cho Quận chúa Diệu Viên đương thời trụ trì chùa Bút Tháp. Nay Viên Chứng mất, Quận chúa mua ruộng giao cho Tính Hài (cùng trụ trì chùa Bút Tháp) thu lấy hoa mầu cúng giỗ Như Tùy. Trúc Lâm Viên Chứng giáo thụ với Ma ha tỷ khưu Như Tùy thiền sư (danh xưng chỉ của một người) chép trong tờ khoán với Như Tùy mà Phúc Điền ghi là “truyền xuống đời thứ 4 là Như Tùy tổ sư” nêu ở phần trên là một. Trong khi đó tờ khoán không hề xác nhận: Như Tùy là Tổ, đồng thời giữ ngôi trụ trì chùa Bút Tháp. Không hiểu Phúc Điền căn cứ vào đâu để cho đời thứ 4 thuộc phả hệ truyền thừa chùa Bút Tháp là Như Tùy ?
Có sợi dây liên kết gì không giữa Như Tùy của tờ khoán với Như Tùy của Phúc Điền? Mặc dù biết trên bia và trên long đình (tự dạng đều khắc rất cẩn thận), không cho phép có thể khắc nhầm Viên Chứng thành Viên Không ! Để lý giải cho vấn đề có nguy cơ đi vào bế tắc, bài viết bắt buộc xác lập bảng thống kê lịch đại và đồng đại trụ trì tăng chùa Bút Tháp trên cơ sở ghi chép của toàn bộ hệ thống bi ký thời Lê hiện còn lưu giữ tại bản chùa như sau:

Thế hệ
Tục danh
Pháp danh
Đạo hiệu
Phong tặng
Thụy
Tháp hiệu
Thời gian trụ trì
34
Lý Thiên Tộ
Thích Viên Văn
Chuyết Chuyết Mân Chương Hải Trừng
Minh Việt Phổ Giác Quảng
Tế Đại Đức Thiền sư
Nhục thân Bồ tát
Đông Đô Thuỷ tổ
Báo Nghiêm
1643

35
Họ Hà
Thích Minh Hành
Tại Tại Nhân
Thiên Đạo sư
Thành Đẳng Chính
Giác Đại Đức Thiền
Sư Hóa thân Bồ tát

Tôn Đức
1644 - 1659
36/1
Lê Thị Ngọc Duyên
Thích Diệu Tuệ
Thiện Thiện
Thánh Thiện Bồ tát

(Chưa rõ)
1660 - ?

36/2
Lê Ngọc Nghênh
Thích Chân Phúc
(Chưa rõ)


(Chưa rõ)
? - 1684
36/3
Hà Đăng Đệ
Thích Huệ Thông

Huyền Thanh Trí Tuệ
Tinh Tiến Phổ Tế
Thiền sư
Tiên nhân
(Chưa rõ)
1685 - 1691
37/1
(Chưa rõ)
Thích Như Đạo
(Chưa rõ)


(Chưa rõ)
1692 - 1722
37/2
Họ Nguyễn
Thích Như Chúc
(Chưa rõ)


(Chưa rõ)
1723 - 1736
37/3
(?)
Thích Diệu Viên
(chưa rõ)


(Ni Châu)
? - 1739 - ?
38/1
(Chưa rõ)
Thích Tính Lượng
(Chưa rõ)


(Chưa rõ)
? - ?
38/2
(Chưa rõ)
Thích Tính Hài
(Chưa rõ)


(Chưa rõ)
? - 1739 -

Từ những ý niệm cảm nhận ban đầu về Viên Không cho đến ghi chép của thư tịch cổ lẫn bi ký, phần nào xác lập danh sách những thiền sư từng giữ ngôi trụ trì Tổ đình Bút Tháp từ Tổ đệ nhất dòng thiền Lâm Tế thế hệ thứ 34 trở đi, đã chứng minh Viên Không không phải là trụ trì tăng chùa Bút Tháp, mặc dù tư liệu văn bia không cho biết về đạo hiệu, tháp hiệu của Chân Phúc, Như Đạo, Như Chúc, Tính Lượng và Tính Hài. Tương tự, tác giả bài viết cũng không lý giải nổi một Thích Huệ Thông lạc lõng về nhiều khía cạnh khi quy chiếu Huệ Thông trong khuôn khổ bài nghiên cứu này, tạm thời coi đây là câu hỏi để ngỏ đợi các bậc thức giả liên kết nghiên cứu và đợi bổ sung tư liệu.
Với bảng thống kê nêu trên, chúng tôi đặc biệt để ý đến hai vấn đề được nêu dưới đây hy vọng nhanh chóng xác minh ra danh tướng Thiền sư Viên Không.
a. Quy cách đặt pháp danh theo tự phái, tự bối
Người Hán từ xưa có quy cách đặt tên, tức là “danh” và “tự”. Sách Lễ ký chép: Ấu danh quán tự幼 名 冠 字khi bé đặt tên, khi đội mũ thì đặt tên chữ, tỷ như Lưu Tiên chúa thời Tam Quốc tự giới thiệu: “Tại hạ họ Lưu tên Bị, chữ là Huyền Đức”, hoặc như Vũ hầu họ Gia Cát tên Lượng, chữ là Khổng Minh… Theo 高 僧 傳Cao tăng truyện, người xuất gia thoạt đầu không có pháp danh, đến đời Đông Tấn bắt đầu mới có pháp danh và đặt họ Thích. Đến thời Đường thì thêm đạo hiệu, từ đó về sau trở thành một luật định, đặc biệt là quy cách đặt tên cho từng thế hệ tương ứng với từng chữ trong một câu thơ hoặc bài kệ, gọi là tự phái 字 派hoặc 字 輩tự bối.
Môn nhân thiền phái Lâm Tế Đàng Ngoài của Chuyết Chuyết được đặt pháp danh theo bài kệ diễn phái của đời thứ 25 Thiền phái Lâm Tế là Thiền sư Đột Không Trí Bản gồm 16 chữ: 智 慧 清 淨 道 德 圓 明 真 如 性 海 寂 照 普 通Trí tuệ thanh tịnh, Đạo đức viên minh, Chân như tính hải, Tịch chiếu phổ thông”. Tức là mỗi một chữ trong bài kệ tương ứng với một thế hệ truyền thừa, ví dụ: Lâm Tế đời thứ 34 tương ứng với chữ Viên, 35 tương ứng với chữ Minh. 36 tương ứng với chữ Chân… Điều này chứng minh: Không có Thiền sư trụ trì chùa Bút Tháp nào có pháp danh là Viên Không và không có tông nhân môn đồ nào thuộc dòng thiền Lâm Tế Đàng Ngoài có pháp danh bắt đầu từ chữ Viên, ngoại trừ Chuyết Chuyết Viên Văn Hòa thượng.
b. Quy cách đặt đạo hiệu dùng điệp tự
Theo điều tra thực tế thì quy cách này không áp dụng triệt để, nhưng tương đối phổ biến, đủ biết đây là đặc trưng thứ hai để nhận biết vị thiền sư này tu hành thuộc thiền phái Lâm Tế hay Tào Động, phạm vi hẹp hơn là thuộc sơn môn nào trong cùng một thiền phái. Ví dụ:
Trạng Nguyên tăng là thầy của Viên Văn lấy đạo hiệu là Đà Đà Hòa thượng, đạo hiệu của Viên Văn là Chuyết Chuyết, trò Chuyết Chuyết là Minh Hành lấy đạo hiệu là Tại Tại, trò của Tại Tại là Thiện Thiện. Sơn môn Liên Phái bắt đầu từ Lân Giác Trịnh Thập là Như Như, đệ tử Như Như là Tính Ngạn lấy đạo hiệu là Ngột Ngột, Hạo Hạo, Hoa Hoa,... Cũng có ý kiến cho rằng: Thiền sư nào dùng điệp tự để đặt đạo hiệu thì thuộc chi trưởng, đích tử, đích tôn, ngoài ra đều thuộc bàng thứ (?).
Vì thiếu thông tin tư liệu, cho nên không thể quy chiếu thiền sư Viên Không trong quy cách này, nhưng cũng tạm thời có thể kết luận (tuy thiếu căn cứ): Viên Không không phải là đạo hiệu và bài viết đi đến lý giải vấn đề cuối cùng, ấy là:
Viên Không chỉ là tháp hiệu
Quá trình tìm kiếm và xác minh ngôi tháp có tên là Viên Không quả thực mất rất nhiều thời gian, cho dù phạm vi được khoanh vùng và đặt trọng tâm vào những ngôi tháp có niên hiệu thời Lê. Bất ngờ đã xảy ra sau khi từ Bút Tháp sang Phật Tích, Hàm Long rồi sang chùa Bảo Quang (tức chùa Bụt Mọc) trên núi Lãm Sơn thuộc thôn Sơn Đông xã Nam Sơn huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh), đã tìm ra ngôi tháp cần tìm. Với tấm bia 圓 空 塔 記Viên Không tháp ký gắn trên thân tháp do Tỷ khưu Hải Khâm Thích Thân Thân ở am Thụ Thụ chùa Bảo Quang soạn năm 1774 hầu như đã giải đáp toàn bộ vấn đề: Thiền sư được an tàng xá lỵ trong ngôi tháp hiệu là Viên Không có tên là Trúc Lâm Viên Chứng Tỷ khưu, pháp danh là Như Tùy, đạo hiệu là Vô Trụ Tổ sư, ông họ Nguyễn, người xã Nghi Dương huyện Nghi Dương phủ Kinh Môn đạo Hải Dương (nay thuộc huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương). Thiền sư sinh ngày 17 tháng 6 năm Lê Chính Hòa 17 (1696), tuổi trẻ hâm mộ nội điển nhà Phật, khi lớn lên chùa Long Động núi Yên Tử yết kiến Chân Nguyên Tổ sư và được thầy thế tóc thụ giới cho đi theo hầu. Một hôm Chân Nguyên hỏi: “Thị giả được bao năm rồi?” Ông đáp: “Xin trọn đời”. Vì thế mà được Chân Nguyên đặt tên là Như Tùy. Ông thờ thầy hết mực, trọn đạo cho đến khi Chân Nguyên viên tịch (1726). Trước đó một năm, sư huynh ông là Như Thích - Tổ sư khai sáng chùa Bảo Quang trên núi Lãm Sơn mất, đến khi Chân Nguyên mất, ông quyết định về trụ trì chùa của Như Thích và dựng nên một sơn môn với một phả hệ truyền thừa kéo dài đến hết thời Nguyễn. Ông mất vào ngày 26 tháng 10 năm Lê Long Đức thứ 2 (1733) khi mới 33 tuổi, đệ tử hơn 30 người dựng tháp Viên Không và tạc tượng ông thờ tại bản tự. Để xác nhận hệ phái Lâm Tế của riêng chùa Bảo Quang, Hải Khâm đã không quên lược dẫn thiền phái đồ ở cuối bia: 圓 空 塔 記Viên Không tháp kýtheo trình tự: 略 引 傳 宗 多 難 盡 述 計 自 黎 朝 中 興 東都 始 祖 報 嚴 塔 弘 法 度 人 圓 文 拙 大 和 尚 傳 至 金 剛 塔 滿 覺 和 尚 明 良 祖 師 傳 至 寂 光 塔 正 覺 和 尚 真 源慧 燈 禪 師 傳 至 圓 空 塔 如 隨 無 住 禪 師 師 是 佛 祖 分 燈 列 焰 - Lược dẫn truyền thừa tông phái (thiền tông Lâm Tế Đàng Ngoài) nhiều đến mức không thể kể xiết, (vị thiền sư) bắt đầu từ triều Lê Trung hưng (được ban tên thụy là) Đông Đô Thủy tổ, tháp hiệu là Báo Nghiêm, (được phong tặng là) Hoằng pháp Độ nhân, (pháp hiệu là) Viên Văn, (đạo hiệu là) Chuyết Đại Hòa thượng, (Đại Hòa thượng) truyền tới tháp hiệu là Kim Cương, (đạo hiệu là) Mãn Giác Hòa thượng, (pháp danh là) Minh Lương Tổ sư, (Tổ sư) truyền tới tháp hiệu là Tịch Quang, (đạo hiệu là) Chính Giác Hòa thượng, (pháp hiệu là) Chân Nguyên Tuệ Đăng Thiền sư, (Thiền sư) truyền tới tháp hiệu là Viên Không, (pháp danh là) Như Tùy, (đạo hiệu là) Vô Trụ Thiền sư, sư chính là người được Phật tổ chia đèn cùng sáng vậy”.
Trong thời gian Viên Không còn tại thế, Ni sư Quận chúa Diệu Viên họ Trịnh tên là Thụy Nhũ (cháu bà tổ cô Diệu Thiện Lê Thị Ngọc Duyên, chắt của Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, cùng tu tại chùa Bút Tháp), xuất gia theo tông Long Động, tôn Viên Không làm nghiệp sư sau đó được chứng giám trao quyền trụ trì chùa Phật Tích và Bút Tháp. Không lâu thì Viên Không mất, bà tạc tượng thầy và rước về thờ tại chùa Bút Tháp, bà mất sau thầy khoảng chừng 5 hoặc 6 năm sau, xá lỵ được an táng trong một ngôi tháp đá có tên là Ni Châu.
Ngoài ra tại chùa Bảo Quang còn lưu giữ bộ 御 製 重 鋟 如 來 應 現 圖 Ngự chếtrùng tẩm Như lai ứng hiện đồ, được khắc lần đầu vào khoảng giữa thời Lê Cảnh Hưng. Đến năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), Sa môn Phổ Hòa cũng trụ trì tại bản tự mới cho trùng san. Công quả của việc in sách này nhằm mục đích cầu siêu cho các chư vị tiền tổ thuộc nhánh phả hệ truyền thừa sơn môn chùa Bảo Quang, cuối sách có chép các vị thiền tổ theo thứ tự:
黎 朝 中 興 東 都 始 祖 報 嚴 塔 弘 法 度 人圓 文 拙 拙 大 和 尚
金 剛 塔 福 慧 廣 大 滿 覺 和 尚 明 良 祖 師
寂 光 塔 慧 燈 永 照 真 元 祖 師 正 覺 和 尚
圓 空 塔 竹 林 圓 證 比 丘 如 隨 無 住 祖 師
- Lê triều Trung hưng Đông Đô thủy tổ, Báo Nghiêm tháp Hoằng pháp Độ nhân Viên Văn Chuyết Chuyết Đại Hòa thượng.
- Kim Cương tháp, Phúc tuệ Quảng đại Mãn Giác Hòa thượng Minh Lương Tổ sư.
- Tịch Quang tháp, Tuệ đăng vĩnh chiếu Chân Nguyên Tổ sư Chính Giác Hòa thượng.
- Viên Không tháp, Trúc lâm Viên chứng tỷ khưu Như Tùy Vô Trụ Tổ sư.
Ghi chép này trùng khớp với những gì tháp Viên Không đã ghi và lý giải được thông tin thiếu căn cứ của Hòa thượng Phúc Điền.
Kết luận
Cốt lõi vấn đề cho dù đơn giản chỉ là việc tìm ra sự liên kết giữa pho tượng và hành trạng (hay nói cách khác: giữa điêu khắc và văn bản Hán Nôm), xác lập lại mối quan hệ giữa Viên Không và chùa Bút Tháp. Nhưng trên thực tế đã đụng vào một cấu trúc phức tạp của cả một thiền phái không dễ bóc tách. Trong khi đó giới nghiên cứu tôn giáo đều biết Thiền tông Lâm Tế mặc dù phát triển trong cùng một địa bàn rất tiện ở chỗ chùa nào cũng là phe nhà mình, nhưng tệ đoan không phải không ít, ai cũng coi mình là người được truyền thừa chính tông đến mức không phân hoạch rõ: ai là đệ tử đắc pháp với ai là đệ tử giữ ngôi trụ trì. Trên thực tế phản ánh người đắc pháp không chắc giữ ngôi trụ trì, người trụ trì chưa hẳn đã đắc pháp. Thần Tú và Huệ Năng là một ví dụ cực kỳ điển hình cho câu chuyện này đồng thời phản ánh nhãn quan chứng đắc của mỗi người một khác, dẫn đến hệ phái truyền thừa mỗi người mỗi chùa ghi một cách. Sự rối rắm trong việc phân chi lập phái có thể làm hỏng sự liên kết trong một cấu trúc truyền thừa nhưng lại là hiện tượng phát tán tất yếu tạo ra sự củng cố và liên kết vững chắc giữa các sơn môn.
Viên Không tuy không phải là trụ trì chùa Bút Tháp, nhưng ông may mắn gặp và học được tông Long Động của Chân Nguyên, nối được chí của Như Thích, biệt thành nhất gia, môn đồ trụ trì tứ tán, trò ở đâu thì tạc tượng thờ thầy ở đó là đạo lý dễ hiểu. Đó chính là nguyên nhân tại sao trong một tấm bia có nhắc chuyện Diệu Viên mua ruộng giao cho thôn để thôn đồng ý cho mình được gửi giỗ thờ cúng Viên Chứng như một trụ trì tăng chùa Bút Tháp.
Tư liệu tham khảo
- Kinh Lễ, Nguyễn Tôn Nhan giới thiệu và chú giải, Nxb. Văn học, Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
- Cao tăng truyện, Đại tạng kinh.

- Ngũ đăng hội nguyên, Đại tạng kinh.

- Văn bia Trùng hưng Liên Phái tự, Ly Trần viện biệt chí (1872) chùa Liên Phái - Hà Nội.
- Văn bia Viên Không tháp kí (1774) chùa Bảo Quang -Bắc Ninh.
- Văn bia Hiển Thụy am Báo Nghiêm tháp bi minh (1647) chùa Bút Tháp - Bắc Ninh.
- Liên đính tuyển Phật trường đồ dẫn (1732), Thích Ngột Ngột bản in tại chùa Hàm Long.
- Kế đăng lục, Như Sơn, bản lưu tại chùa Liên Phái.
- Thiền uyển truyền đăng lục, Phúc Điền, bản lưu tại chùa Ngọc Quán.
- Ngự chế trùng tẩm Như Lai ứng hiện đồ, Bản lưu tại chùa Bảo Quang.
- Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, H. 2000.
(Tạp chí Hán Nôm, Số 6 (79) 2006; Tr.58-65

Chữ Nôm và sự nghiệp “Việt hóa” Phật giáo

Chữ Nôm và sự nghiệp “Việt hóa” Phật giáo Thiền Phong Viện Nghiên cứu Hán Nôm Là một trong hai chữ viết chính của thời đại phong kiế...