Chữ Nôm và sự nghiệp “Việt hóa” Phật
giáo
Thiền Phong
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Là một trong hai chữ viết chính của thời đại phong kiến Việt Nam, chữ Nôm
có vai trò quan trọng trong hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá; đồng
thời thúc đẩy quá trình thuần thục văn hoá trong biến chuyển kinh tế từng giai
kì và diễn dịch văn học Việt Nam. Quá trình đó, chữ Nôm có vai trò không nhỏ
với việc truyền bá, bảo lưu văn hoá Phật giáo.
Truyền thống Phật giáo với các kinh điển Nội điển chú trọng
vào ngôn ngữ âm Hán. Trong thư tịch Thiền tông, âm Hán tạo nên sự hàm súc trong
ngôn ngữ để nghe, suy nghĩ và hành động được những căn cơ gần với các tổ, bậc
cổ đức để hướng đạo các thiền sinh sớm chứng ngộ vào cõi Phật đà. Đạo Phật
truyền vào đất Việt rất sớm không chỉ trên phương diện lễ nghi tư tưởng mà cả
kinh sách nội điển. Kinh sách Phật giáo Đường Tống cũng như tông phái Thiền
Tông truyền vào Đại Việt và hưng thịnh thời Lý Trần. Gắn liền với truyền thống
nghìn năm phát triển dân tộc, người Việt đã tiếp thu chữ Hán để sáng tạo chữ
Nôm và sử dụng trong cuộc sống đa chiều, đa diện của người Việt. Chữ Nôm đã đáp
ứng được nhu cầu người Việt trên phương tiện chuyển tải cuộc sống tinh thần cả
nghìn năm qua. Thiền Tông tu đạo trong văn - tư - tu không ngờ khi tiếp xúc văn
hoá Việt đã được Nôm hoá thành Thiền tông Việt Nam.
Cũng như tại Trung Quốc, Phật giáo Thiền Lâm Tế phát triển
mạnh và chú trọng ngữ lục, minh, kệ thì tại Việt Nam, sau khi du nhập, vẫn bảo
nguyên cốt lõi là Lâm Tế, bên ngoài đã được bao bọc một lớp sơn mới Thiền Trúc
Lâm. Một nghìn năm phát triển, không dừng lại trong kinh kệ và truyền thống văn
hoá đất Việt, in đậm trong tín ngưỡng lễ nghi mà hệ thống thư tịch còn đến ngày
nay cho thấy văn học Phật giáo viết bằng chữ Nôm rất phát triển.
Chữ Nôm gắn với truyền thống Phật
giáo nghìn năm qua, thư tịch kinh điển hướng dẫn sự tu đạo cũng như truyền bá
tư tưởng, tín ngưỡng. Văn học chữ Nôm Phật giáo có ý nghĩa thiết thực với cuộc
sống người Việt. Như thế, Chữ Nôm đã mang vai trò to lớn của nó trong việc gìn giữ
và phát huy văn hoá dân tộc, đặc biệt trong việc phát huy sự hữu ích của tông
giáo Phật giáo.
Những thư tịch Phật giáo còn đến ngày nay rất nhiều, giai
đoạn sớm thời Lý Trần chữ Nôm đã sớm xuất hiện trên văn bia, như bia chuông
chùa Vân Bản: “Vân bản tự chung minh”, bia chùa Báo Ân “Chúc Thánh
Báo Ân tự bi” khoảng cuối thế kỉ 12 đầu 13; “Báo Ân thiền tự bi kí”….
bắt đầu cho thấy chữ Nôm đã được dùng trong văn bản tôn giáo, ghi chép ruộng
Tam bảo. Đây là những tư liệu thành văn đầu tiền của ngôn ngữ chữ Nôm Việt Nam
đến nay còn lại.
Thực tế cho thấy, văn học Việt Nam thời phong kiến, những
tác phẩm còn đến ngày nay nhiều phần là tác phẩm Phật giáo, trong đó văn học
chữ Nôm chiếm địa vị không nhỏ, và có ý nghĩa đặc biệt trong nghiên cứu văn
hoá, ngôn ngữ người Việt. Cư Trần Lạc Đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca, của Trần Nhân Tông, Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang… là
những bài thơ văn Nôm thời Trần còn đến ngày nay thể hiện người tu hành đã dùng
văn Nôm để thể hiện tu chứng của bản thân hành giả trong quá trình tu tập. Sự
giác ngộ được các vua Trần, hệ phái Tam tổ Trúc Lâm thể hiện mỗi người mỗi
kiểu, nhưng vượt qua khả năng diễn đạt của ngôn ngữ Hán. Các tác phẩm này được
khắc in lại năm 1745 tại chùa Liên Hoa (tức chùa Liên Phái ngày nay) mà học giả
Hoàng Xuân Hãn khi nghiên cứu ba bài văn này đã nhận định “tôi tin rằng ba
bài văn Nôm kia thật của những tác giả mà bản khắc năm 1745 đã mách”, tức
là chứng thực tác giả là Trần Nhân Tông, Huyền Quang.
Bài cư trần lạc đạo
với 10 hội thể hiện Trần Nhân Tông trong quá trình tu tập chứng ngộ đạo pháp
từng cung bậc, với văn phong hàm súc đầy chất trí tuệ và từ bi. Đây là một
trong những văn bản cổ của văn chương của người Việt còn lưu giữ được. Trong đó
cho thấy nhà thơ – nhà tu hành không dừng lại ở việc dẫn dụ con đuờng thành đạo
mà hướng thượng bằng hệ thuyết tư tưởng Phật giáo. Tư tưởng Thiền chính là cuộc
sống bình dị của con người tu hành đắc đạo. Truyền thống tu hành và phát dương
Tông giáo của Thiền phái Trúc Lâm nối kết, xiển dương giáo pháp chứng ngộ trên
hệ thống văn Nôm. Nhà thơ từ trong bụi bặm mà vui với đạo, thể hiện tinh thần
nhập thế, tự tính giác ngộ lẽ chân như:
Mình ngồi thành thị.
Nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính.
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm. …
(Câu 1 – 4, hội 1, Cư trần lạc đạo phú)
Từng bước bóc tách để lộ bản lai chân diện lục của tự thân
hành giả trên con đường tu tập:
Giữ tính lặng thì tính mới yên. Nén được sự nghĩ lầm thì
lòng không sai
Quên cái thân giả đối thì thực tướng sáng bền. Diệt hết lòng
tham, lòng giận, thì hiểu rõ lòng mầu nhiệm
Tĩnh độ ở trong lòng sạch của mình nếu giữ được lòng yên
lặng; mình đã có Phật tính rồi. (câu 15 - 22, hội 2, Cư Trần lạc đạo phú)
Đến Đệ tam tổ Huyền Quang qua bài phú vịnh chùa Hoa Yên thì
người tu hành trên đỉnh non Yên Tử đã đi từ con đường thực tại của thầy để rồi
giác ngộ thực thể của tự thân giữa nội cảnh và ngoại vi, thấy rõ chân như bản
tính. Buông niềm trần tục
Náu tới Vân Yên
Chim thuỵ dõi tiếng ca chim thuỵ
Gió tiên đưa đôi bước thần tiên
(Câu 1 – 4, Vịnh hoa Yên tự phú)
Để rồi kết kệ:
Rũ không thay thảy áng phồn hoa
Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà
Khuya sớm sang chong đèn bát nhã
Hôm mai rửa sạch nước Ma ha
Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại
Thế sự hiu hiu gió thổi qua
Cốc được tính ta nên Bụt thật
Ngại chi non nước cảnh đường xa.Đặc biệt trong các bài phú của Thiền Trúc Lâm các tổ đã sử
dụng hình thức kết thúc cho mỗi bài phú một bài kệ, đây là sự đúc kết nội dung
và sở chứng của người tu hành mà sự biểu đạt chỉ là hình thức ngoại vi. Đệ nhất
tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông nhấn mạnh ở lẽ “bình thường tâm thị đạo” của
truyền thống tông giáo. Đấy là việc ở trong cảnh bụi trần mà không nhuốm tục:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
Cơ tắc xan hề khốn tác miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
(Ở trong đời vui với đạo tuỳ theo duyên gặp,
Đói thì ăn, khát thì uống, khó khăn thì ngủ.
Trong nhà có của báu cần gì đi tìm ở đâu,
Trước cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.)
Sau thời Lý Trần, Phật giáo từng bước suy thoái và dần dần
chuyển vào địa hạt dân gian, đây cũng chính là bước chuyển biến mới. Sự kết hợp
Nho Phật Lão sinh ra tín ngưỡng bản địa thêm phong phú. Thiên tai và nhân họa
trải qua, các trác phẩm của thời đại Lý Trần đến nay còn không nhiều, trong đó
những tác phẩm Nôm có giá trị học thuật cao, mà thời sau ngôn ngữ và tư tưởng
không đạt được đến như thế. Một thời đại mấy trăm năm, văn chương tồn tại đến
ngày nay phần nhiều là tác phẩm Phật giáo, hoặc viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm
nhưng rất có giá trị học thuật và ý nghĩa lịch sử.
Nhận định về văn học Phật giáo Lý Trần nói chung và Văn học
chữ Nôm thời kì này nói riêng, Giáo sư Vu Tại Chiếu - Đại học Trịnh Châu –
Trung Quốc phát biểu rằng: “Trên văn đàn Việt nam thế kỉ X – XII, các nhà sư
là lực lượng nòng cốt sáng tác thơ văn… Hầu như tất cả tác phẩm chữ Nôm trong
thời kì ban đầu của văn học chữ Nôm bây giờ vẫn giữ được đều là do các đại sư
Phật học sáng tác”. Đây là một nhận định khách quan và đúng đắn khi nhìn
nhận về văn học Phật giáo Lý Trần. Trong Lịch sử Văn học Việt Nam thế kỉ
X – nửa đầu thế kỉ XVIII, chủ biên bởi Giáo sư Đinh Gia Khánh cũng nhận định: “Cho
đến nay chúng ta vẫn chưa thấy được một tác phẩm Nôm chắc chắn thuộc đời Trần
mà lại không phải là của nhà chùa”.
Sau thuộc Minh, Phật giáo dần dần chuyển hoá và từng bước
phát triển theo chiều rộng, tông phái đứt đoạn nhưng cội rễ thêm sâu trong lòng
văn hoá dân tộc. Lê sơ thịnh trị Nho giáo nhưng Phật giáo vẫn chiếm những địa
vị trong văn đàn. Nói một cách khác, Nho giáo độc tôn về chính trị, nhưng mặt
tư tưởng thì chuyển hoà trong Tam giáo. Đây cũng chính là mối ràng buộc về tư
tưởng trong các triều đại Việt Nam. Thời thịnh trị Lê Thánh Tông đã viết “Thập
giới cô hồn quốc ngữ văn” chép trong sách Thiên Nam dư hạ tập, cho
thấy sự thấm nhuần tư tưởng Phật học của vị vua Nho giáo này. Hiện nay, các học
giả từng bước bóc tách rằng: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nhiều nhà văn nhà
thơ giai đoạn Lê Sơ đều thấm nhuần tư tưởng Tam giáo. Trong đó Phật giáo có ý
nghĩa thiết thực với cộng đồng nhân sinh, và thực chứng là những tác phẩm Nôm,
trong văn thơ Nôm thời Hồng Đức cũng như hệ tư tưởng của họ trong văn bản Hán.
Từ thời Trung hưng về sau, văn học chữ Nôm phát triển rực
rỡ. Nhận định giai đoạn này, Phó giáo sư Trịnh Khắc Mạnh trong bài viết Hội
Nghị Quốc tế về chữ Nôm năm 2006 nhấn mạnh: “Các triều đại nhà nước phong
kiến ở Việt Nam phát triển lúc thịnh lúc suy; nhưng văn học Việt Nam nói chung
và văn học chữ Nôm nói riêng, lại có sự phát triển mạnh mẽ. Nhiều điểm mới
trong sáng tác văn học nghệ thuật được hình thành về cả giá trị nội dung và
hình thức nghệ thuật. Văn học chữ Nôm phát triển toàn diện về chất lượng nội
dung và số lượng tác phẩm”.
Không chỉ văn nhân sĩ đại phu trong sáng tác văn học chữ Nôm
với hệ tư tưởng Phật giáo, mà các nhà sư, nữ sĩ cũng tham gia văn đàn, khiến
cho bộ mặt văn học nghệ thuật Văn học Phật giáo bằng chữ Nôm đa dạng về trong
thể hiện. Sau khi truyền vào đất Bắc, Phật giáo Lâm Tế Đại việt phát triển mạnh
mẽ, kinh sách được chuyển từ Trung Quốc về và được diễn Nôm cho dễ hiểu, dễ
đọc. Điều đó dẫn đến những tác phẩm Nôm đặc sắc của giới Tăng ni cũng như văn
nhân sĩ phu. Phật Thuyết phụ mẫu ân trọng kinh, cùng các kinh sách diễn
âm của Hương hải Thiền sư là những thành quả rất cao trong biên dịch kinh kệ ra
chữ Nôm. Hương Hải đã biên dịch Nôm các kinh sách như Sự lí dung thông, A di
đà diễn âm, Kinh Kim cương diễn âm,…. Đồng thời, Hoàng thân quốc thích Lê
triều cũng tham gia chốn thiền môn, giác ngộ lẽ chân như. Trần Thị Ngọc Am là
vợ chúa Trịnh Tráng là trường hợp như thế khi bà theo Chuyết Chuyết tổ sư đắc
pháp và viết 13 bài kệ truyền trong Chuyết Chuyết Thiền sư ngữ lục.
Dưới đây là bài kệ thứ 4:
Hựu kệ:
Tự tính chính sự ở trong lòng,
Phật vô Nam bắc lẫn Tây đông.
Dầu xa nghìn dặm cùng chăng có,
Di Đà phật tính chính ở lòng.
Lâm Tế tông phát triển rồi kéo theo sự phục hồi thiền phái
Trúc Lâm, Chân Nguyên Thiền sư là điển hình cho tác giả văn học Phật giáo thời
Lê. Sống cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII, Chân Nguyên là đệ tử đời thứ 3 dòng
Lâm tế Đại Việt, chính ông đã viết nhiều tác phẩm Nôm, biên soạn lại hệ thống
thư tịch của Tam tổ Trúc Lâm. Ông đã để lại nhiều tác phẩm Nôm như: Tôn Sư
Pháp Sách Đăng Đàn Thọ Giới, Nghênh Sư Duyệt Định Khoa, Thiền Tông Bản Hạnh,
Nam Hải Quan Âm Bản Hạnh, Thiền Tịch Phú, Đạt Na Thái Tử Hạnh, Hồng Mông Hạnh….
Riêng sách Thiền tông bản hạnh, kể về sự tích Thiền
tông và cuộc đời tu hành của các vua từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông. Văn
bản Thiền Tông bản hạnh được in cùng các tác phẩm như Cư trần lạc đạo
phú, Vịnh Hoa yên tự phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca vào năm 1745 tại
chùa Liên Hoa bởi Sa di ni Diệu Thuần. Thiền tông bản hạnh với văn phong
đơn giản nhưng thấm nhuần ngôn ngữ Phật giáo, đồng thời thể hiện tinh thần nhập
thế của tác giả một nhà tu hành. Vua chúa công hầu được trích dẫn như đề từ cho
thời đại của bản diễn Nôm:
Bụt sinh Hoàng giác Lê gia
Bụt sinh Hoàng giác Lê gia
Thánh chúa vỗ trị gần xa lai hàng
Bốn phương gió tắt lửa lang
Phong điều vũ thuận dân khang thái bình
Văn phong thể hiện một thời thịnh trị thái bình dưới sự cai
quản của vua Lê Hi Tông và chúa Trịnh. Đạo pháp dân tộc cùng hướng đến:
Tiêu dao khoái lạc chẳng âu
Bất sinh bất diệt ngồi lầu toà sen
Ngoài Hương Hải, Chân Nguyên các tác gia văn học khác cũng
là những người thấm nhuần thời đại, hiểu lẽ vô thường của nhân sinh. Phạm Thái
ban đầu là nhà Nho, sau xuất gia ở chùa Tiêu Sơn - Quế Võ - Bắc Ninh, lấy đạo
hiệu Phổ Chiêu thiền sư, ông đã viết nên những áng văn chương đau buồn về thời
thế và cuộc đời, thấm nhuần tư tưởng Trí Bi của đạo Phật trong tác phẩm Văn
triệu linh, đặc biệt là Sơ kính tân trang:
Tu hành nhờ đức Thế tôn,
Ắt say sưa đạo lại buồn bồng duyên
Lọ là khấn vái tiên thiên
Cậy quan âm với mục lien xót tình….
Ối nao ôi! khổ tu hành
Biết Tây phương có dạng hình nay không.
Cùng thời, Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều, được coi là áng
văn chương bất hủ, thấm nhuần tư tưởng Phật giáo. Trong tác phẩm, là sự dung
hoà tình yêu, cuộc sống và lẽ vô thường của kiếp người, nhân sinh và thế giới
quan bi phẫn thời cuộc của tác giả, thể hiện cuối cùng cái thiện, mối lương
duyên cũng ràng buộc con nguời đến những điều tốt đẹp. Ngoài truyện Kiều bằng văn
Nôm, Nguyễn Du còn sang tác Văn chiêu hồn ca khúc bi thương cho thập
loại cô hồn thoát khỏi tầng diêm la địa ngục:
Đoạn Quý nữ liều thân:
Lên lầu cao xuống dòng nước chảy
Phận đã đành tram gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui cười
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương
Có thể nói, văn chương chữ Nôm của Nguyễn Du là những khúc
bi thương cho thân phận con người. Ông đã kết lại tinh thần Phật giáo trong văn
chương Nôm giai đoạn cuối Lê triều và mở ra thời kì mới văn chương triều
Nguyễn. Nhưng chính ông là mạch nối gắn kết hai giai đoạn, mà ảnh hưởng từ tác
phẩm của ông còn mãi về sau.
Lê triều là thời kì văn chương chữ Nôm rực rỡ, tác gia phong
phú. Trong đó, các sáng tác gắn với hệ tư tưởng hoặc văn phong Phật giáo cũng
rất nhiều, bao gồm các văn nhân, nhà sư, vua chúa. Văn chương còn lại đến nay
ghi tên tác giả, hoặc khuyết danh. Nhưng tinh thần chung của văn phong thời kì
này là tính chất thời đại. Lê triều, thời đồng hành vua chúa và đều tiêu dao
chốn am mây chùa vắng, ngắm cảnh tiêu dao. Các chúa như Trịnh Tráng, Trịnh Sâm,
Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Cán… thường vui thú yên hà, đi đây đi đó, ban
bố ân huệ sắm sanh chùa chiền. Các vị chúa nay còn nhiều tác phẩm thơ văn Nôm
truyền đến ngày nay. Trong đó, Trịnh Sâm còn khá nhiều tác phẩm, ông đến danh
lam thắng cảnh nào cũng vạch đá đề thơ. Chúa Trịnh Cương thì viết cả tập Lê
triều Ngự chế Quốc âm thi, trong đó phần nhiều là thơ ngao du chơi thăm
thắng cảnh chùa chiền:
Bài thơ 15:
Nguyệt đường tự thi
(Thơ chùa Nguyệt Đường)
Danh lam từng trải đã hay danh,
Trình độ này âu hợp chuẩn trình.
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp,
Kinh lâu rỡ rỡ diễn chân kinh.
Công nhiều nhờ bởi công vô lượng,
Thế hợp vầy nên thế hữu tình.
Ngăn tục mựa cho mùi tục luỵ,
Lòng thiền tu cẩn chốn thiền quynh.
Nối tiếp thời đại, Nguyễn triều chấm
hết thời phân tranh, cũng kết thúc thời phong kiến và gắn liền thời đại chữ
Quốc ngữ. Nhưng văn chương chữ Nôm vẫn âm ỉ tồn tại trong lòng cuộc sống dân
tộc đến giữa những năm 50 của thế kỉ XX. Đây là thời đại thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ dân tộc.
Thư tịch Hán và Nôm ngày nay còn lại phần nhiều là của thời
Nguyễn, hoặc in hoặc sao lại. Nhiều văn bản Lê triều còn tồn tại đến ngày nay
là do công quả của văn nhân sĩ phu Nguyễn triều. Thống nhất đất nước, nhưng đa
dạng trong văn hoá tông giáo. Thời Nguyễn Đạo Phật phát triển nối tiếp hệ phái
triều Lê, văn phong và hệ tư tưởng chịu sự chi phối quán xuyến.
Các thiền sư Nguyễn Triều thành danh nhất đã vượt qua cuộc
sát hạch dưới thời Minh Mệnh năm 1835 để ban giới đao độ điệp. Trong đó, đáng
kể nhất là danh tăng Phúc Điền Hoà thượng. Ông sinh cuối thế kỉ XVIII và cuối
thế kỉ XIV mới viên tịch. Gần trăm năm, qua mấy đời vua, Phúc Điền hiểu nhất sự
vận chuyển của thời đại và kiếp nhân sinh. Ông dốc mình biên dịch kinh sách chữ
Nôm cũng như nhiều thư tịch Hán Nôm khác để quảng bá. Bao gồm các loại sách,
kinh sách, lịch sử Phật giáo diễn Quốc âm như: Khoá hư lục Quốc âm, Kim
Cương Quốc âm, Thái Căn đàm, Hộ pháp luận, Trúc song tuỳ bút, Tam
giáo Nhất Nguyên, Thái căn đàm, Sa di luật nghi giải nghĩa, ....
Phúc Điền đã thành công trong việc truyền bá và rộng mở đạo pháp trong thời
Nguyễn, văn chương của ông dễ hiểu và thuần phong cách ngôn ngữ Phật giáo.
Ngoài Phúc Điền Hoà thượng còn nhiều tác gia khác biện dịch
văn chương chữ Hán thành chữ Nôm như Kiều Oánh Mậu chú giải và in lại Truyện
Kiều và diễn âm Hương sơn Quan thế âm chân kinh tân dịch,
Nguyên Trai Vũ Đức Huân diễn âm Giới sát phóng sinh, Chu Mạnh Trinh với Hương
sơn nhật trình ca, Nguyễn Khắc Thuyết diễn Nôm truyện Từ Đạo Hạnh….
Đã tạo nên một thời kì thịnh trị nhất về văn chương chữ Nôm Phật giáo trong
dòng văn học Việt Nam. Tuy ngôn ngữ văn chương chữ Nôm Phật giáo giai đoạn này
không hàm súc, phong phú như Lê triều, nhưng phát triển đa chiều đa dạng, không
chỉ về thể loại mà còn về cả hình thức. Đồng thời, giai đoạn cuối Nguyễn triều,
Phật giáo dung hoà trong tín ngưỡng thờ Mẫu, tạo nên một hệ thống văn chương
chữ Nôm thấm nhuần văn hoá bản địa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
Cơ bản thư tịch chữ Nôm văn học Phật giáo còn đến ngày nay
là kinh, sách. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hệ loại tư liệu liên ngành như, văn
bia, hương ước, văn khế, điạ bạ… viết bằng chữ Nôm liên quan đến chùa chiền
hoặc tín ngưỡng Phật giáo. Riêng hệ thống bia chí chữ Nôm hiện nay tính trong
các tỉnh miền Bắc có khoảng hơn 104 chiếc, trong đó văn bia chùa chiền hoặc
hang động gắn với chùa là 67 bia, chiếm 64, 42% tổng số bia Nôm. Trong đó đáng
kể là 18 bia Nôm ở chùa Phật giáo xã Vĩnh Quỳnh huyện Thanh Trì - Hà Tây. Tác
giả trong hệ thống bia Nôm ở chùa hiện nay khảo sát được chủ yếu thời Nguyễn.
Tuy nhiên, một điều đặc biệt là tác giả vua chúa chiếm đến gần 23, 19% tổng số
bia trên. Như vậy, tư liệu chữ Nôm về Phật giáo hiện nay rất phong phú và vẫn
chưa được khai thác trên nhiều khía cạnh văn học. Sự đa dạng này vượt qua những
chuẩn định của văn bản Hán khi áp chế trong văn học quna phương người Việt thời
Phong kiến. Chữ Nôm là sản phẩm của người Việt, và đa dạng trong hình thức thể
hiện cũng chính là sản phẩm của người Việt.
Nhu cầu cuộc sống cùng thời đại đã sản sinh những áng văn
chương chữ Nôm bất hủ. Đồng thời diễn tiến theo từng giai kì cho thấy sự hoàn
bị trong sáng tạo thể loại. Một trong những đặc sắc của văn chương chữ Nôm nói
chung và văn chương chữ Nôm Phật giáo nói riêng là mặt thể loại. Nếu văn chương
chữ Hán bó hẹp trong các thể thơ Đường cùng với đối ngẫu của phú thể thì sự
phong phú của thơ Nôm khiến cho đa dạng trong sáng tác và thể hiện ngôn ngữ
người Việt. Diễn tiến theo lịch sử cho thấy những tác phẩm văn học chữ Nôm về
Phật giáo như: Cư Trần lạc đạo, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca… là những
chuẩn mực về sử dụng sử dụng thể văn biền ngẫu. Đối trong phú Nôm tạo nên những
đặc sắc mà văn học Hán không có được. Diễn Nôm khiến cho ngôn ngữ diễn tả được
nhiều hơn, cụ thể hơn. Cư Trần lạc đạo là một trong những bài phú kinh
điển trong sử dụng chữ Nôm vào sang tác văn chương. Thơ chữ Nôm với nhiều tác
phẩm, trong đó thể thơ 6 chữ nối kết thơ Nôm thời Lê sơ như Hồng Đức quốc âm
thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập… Trong đó đáng kể các bài kệ của Trần
Thị Ngọc Am, cũng như thơ các vua Lê chúa Trịnh, như Trịnh Doanh, Trịnh Sâm,
Trịnh Cương….
Nét đặc sắc nhất của văn chương Phật giáo viết bằng chữ Nôm
về mặt thể loại có lẽ chính là các bài phú Nôm, bài kệ Nôm, thơ lục bát chữ
Nôm, song thất lục bát chữ Nôm…. Đây là những thể loại mang đậm màu sắc người
Việt. Như Truyện Kiều của Nguyễn Du viết bằng thơ Lục bát, trong khi Văn
Chiêu Hồn của ông viết bằng thể song thất lục bát. Điều nay cho thấy tác
gia văn học được thả mình trong thể loại để sang tác theo cảm hứng thích hợp.
Chữ Nôm ra đời đáp ứng nhu cầu thực tế xã hội và ngôn ngữ
người Việt. Nghìn năm trôi qua, văn chương chữ Nôm vẫn đang được khám phá và
nghiên cứu. Sự ra đời của chữ Nôm đã đáp ứng được nhu cầu của dân tộc trong sự
phát triển văn hoá, góp phần nâng cao địa vị tiếng Việt. Văn chương Phật giáo
viết bằng chữ Nôm có ý nghĩa thiết thực trong sự phát triển ăn hoá dân tộc mà
ngày nay dư âm mãi còn vang vọng. Văn bản vẫn còn, hình tích chưa phai. Chữ Nôm
mãi mãi là đứa con tinh thần của người Việt, gắn liền với truyền thống nghìn
năm đã qua và về sau.
Phong Phạm Tuấn
T